Thứ Tư, 30 tháng 12, 2009

Nhận hồ sơ giảm trừ gia cảnh đến 31-3-2010

Đó là khẳng định của ông Đặng Hạnh Thu, tổng cục trưởng Tổng cục Thuế, dù theo công điện trước đây hạn chót nộp các giấy tờ chứng minh người phụ thuộc (khai sinh, hộ khẩu...) để được giảm trừ gia cảnh khi tính thuế thu nhập cá nhân là 31-12-2009.

Theo ông Thu, người lao động đã đăng ký giảm trừ gia cảnh nên hoàn thiện các giấy tờ chứng minh để nộp cho cơ quan thuế trước thời điểm quyết toán thuế 31-3. Nếu nộp sau ngày 31-3, người nộp thuế chỉ được giảm trừ cho bản thân, đồng thời phải điều chỉnh trở lại số thuế đã được giảm trừ người phụ thuộc theo đăng ký ban đầu.

Cũng theo ông Thu, từ nay đến 31-3-2009, nếu phát sinh tăng, giảm người phụ thuộc thì người nộp thuế tự làm giấy đề nghị gửi cơ quan thuế, trong đó ghi rõ người phụ thuộc đã khai và khai lại người điều chỉnh.

Theo ghi nhận của Tuổi Trẻ, trong ngày 30-12-2009 một số cơ quan thuế vẫn yêu cầu người nộp thuế hoàn thành hồ sơ chứng minh người phụ thuộc trước 31-12. Sau ngày này cơ quan thuế sẽ không tiếp tục nhận hồ sơ. Về vấn đề này, ông Thu cho biết Tổng cục Thuế sẽ có công điện gửi các cơ quan thuế địa phương hướng dẫn về việc gia hạn thời gian nộp hồ sơ giảm trừ gia cảnh.

Những ngày gần đây số doanh nghiệp nộp hồ sơ giảm trừ gia cảnh cho người lao động tại Cục Thuế TP.HCM rất đông. Tuy nhiên nhiều hồ sơ, giấy tờ không đúng yêu cầu, doanh nghiệp phải làm lại hoặc bổ sung.

Theo Cục Thuế TP.HCM, doanh nghiệp nên lưu ý giấy tờ chứng minh người phụ thuộc phải có chứng thực của UBND phường, xã. Trường hợp không kịp sao y thì phải mang theo bản chính để cơ quan thuế đối chiếu. Riêng trường hợp có con học tại nước ngoài thì chỉ cần mang theo bản tự dịch giấy báo nhập học, không cần sao y.

Được biết, theo thông tư 62 của Bộ Tài chính bổ sung thông tư 84 về thuế thu nhập cá nhân, cá nhân có thể dùng lý lịch đã khai để chứng minh người phụ thuộc. Theo đó, cá nhân chỉ cần khai người phụ thuộc trong tờ khai theo mẫu, có xác nhận của thủ trưởng đơn vị.

Được áp dụng theo cách này là cá nhân làm việc trong các tổ chức kinh tế, các cơ quan hành chính sự nghiệp có bố, mẹ, vợ (hoặc chồng), con và những người khác là người phụ thuộc đã khai rõ trong lý lịch. Trường hợp có thay đổi về người phụ thuộc thì cá nhân đề nghị thủ trưởng đơn vị xác nhận vào tờ khai điều chỉnh.

Hồ sơ chứng minh người phụ thuộc để được giảm trừ gia cảnh
(Tất cả là bản sao có chứng thực hoặc khi nộp phải đem bản chính để đối chiếu)

(Nguồn: thông tư 84 và 62 của Bộ Tài chính)

Người phụ thuộc

Giấy tờ chứng minh

Con

- Dưới 18 tuổi

- Giấy khai sinh hoặc sổ hộ khẩu.

- Trên 18 tuổi bị tàn tật

- Xác nhận của cơ quan y tế cấp huyện trở lên hoặc bản khai có xác nhận của UBND cấp xã về mức độ tàn tật.

- Ðang theo học ÐH, CÐ

- Thẻ sinh viên/bản khai có xác nhận của nhà trường.

Vợ/chồng, cha mẹ, anh chị em ruột ngoài độ tuổi lao động

- Sổ hộ khẩu hoặc giấy tờ xác định quan hệ.

- Trong độ tuổi lao động không có khả năng lao động

- Xác nhận của cơ quan y tế từ cấp huyện trở lên hoặc bản khai có xác nhận của UBND cấp xã.

- Bố dượng, mẹ kế

- Giấy khai sinh của người nộp thuế; giấy chứng nhận kết hôn hoặc giấy tờ khác có liên quan chứng minh.

Ông, bà nội/ngoại, cô, dì, chú, bác, cậu, cháu ruột ngoài độ tuổi lao động; không có khả năng lao động, không nơi nương tựa

- Sổ hộ khẩu nếu có cùng sổ hộ khẩu, bản sao giấy khai sinh...

- Không cùng hộ khẩu nhưng sống chung nhà

- Bản tự khai có xác nhận của UBND cấp xã.

- Không cùng hộ khẩu, cũng không sống chung nhà

- Bản tự khai có xác nhận của UBND cấp xã nơi người phụ thuộc sinh sống.

Người trong độ tuổi lao động mắc các bệnh AIDS, ung thư, suy thận mãn...

- Bệnh án của cơ quan y tế từ cấp huyện trở lên. Không cần phải có xác nhận của UBND cấp xã.

Người tàn tật không có khả năng lao động nhưng không có xác nhận của cơ quan y tế

- Tự khai theo mẫu và đề nghị UBND cấp xã nơi người phụ thuộc đang sống xác nhận những biểu hiện cụ thể về sự tàn tật (cụt tay, cụt chân, mù mắt, mắc bệnh thiểu năng trí tuệ (Down), bị di chứng chất độc da cam...).

Nguồn: A.HỒNG - TUỔI TRẺ

Ngân hàng quay cuồng tiền cho kịp quyết toán!

Nhiều ngân hàng "méo mặt" lo chạy tiền cho kịp quyết toán cuối năm (Ảnh minh họa)

Gọi điện hẹn gặp mấy anh bạn làm giám đốc ngân hàng mấy ngày nay thật khó. Anh em lâu ngày không gặp, định hàn huyên một bữa “tất niên", nhưng mấy anh bạn dứt khoát: Chịu chết, tôi phải “trực chiến” mấy ngày cuối năm ở cơ quan không thể đi đâu được. Nhất là ngày 31/12 này thì chỉ có nước “mắc màn” ngủ lại cơ quan để làm cho kịp quyết toán năm.

Không những kẹt cứng về thời gian, nhiều ông bạn cũng không giấu được vẻ mặt bơ phờ vì phải lo chạy đôn đáo tiền để cho “đẹp” số dư huy động khi chốt sổ!

Từ lãnh đạo đến nhân viên bơ phờ vì... tiền


“Tôi có ông bạn, mấy hôm nay gặp là cứ than vãn không biết ‘moi’ đâu ra 300 triệu đồng cho ba đứa cháu làm ở ba ngân hàng. Bởi, cứ đến ngày cuối năm, nếu ai chưa đủ chỉ tiêu dư nợ huy động thì phải cố đạt cho kỳ được, nếu không muốn bị xếp loại B. Mà ở ngân hàng, chênh lệch tiền thưởng giữa loại A và B là cả chục triệu đồng chứ chẳng ít,” ông Thăng, một chuyên gia từng là lãnh đạo ngân hàng cho biết.

Năm nay, nhiều ngân hàng cổ phần đang phải lo méo mặt, phần vì chỉ tiêu về tăng trưởng dư nợ cho vay bị “siết lại,” trong khi chỉ tiêu về huy động thì lại phải “phình” ra càng nhiều càng tốt! Ai cũng muốn khi chốt sổ quyết toán ngày 31/12, cột bên huy động phải “thặng dư” so với cột bên cho vay.

Chính vì thế, có một chuyện tưởng như là chuyện cười, khi trong mấy ngày nay, nhiều lãnh đạo doanh nghiệp cho biết họ đều “bị” các ngân hàng “ruột” hỏi thăm cho “mượn” tiền khoảng từ 2-4 ngày. Thậm chí, có doanh nghiệp vì cuối năm cũng cần tiền phải chi tiêu lương, thưởng hay thanh toán các khoản hợp đồng đến hạn thanh toán, cũng đành phải cho ngân hàng mượn đỡ tiền... trong 1 ngày!

“Đích thân lãnh đạo ngân hàng tôi có quan hệ thân thiết điện thoại nhờ tôi gửi tiền vào, dù chỉ 1 ngày, 31/12 chuyển vào rồi ngay ngày 1/1 là có thể rút ra ngay nên dù bí lắm nhưng tôi cũng không thể từ chối. Vì những lúc mình khó khăn, họ cũng luôn giúp mình nhiệt tình, thì nay không thể chỉ vì có 1 ngày mà mình làm họ thất vọng,” bà Xuân, chủ một doanh nghiệp ở Hà Nội cho hay.

Thế mới có chuyện, lãnh đạo một chi nhánh ngân hàng cổ phần ở Cầu Giấy vui ra mặt khi chỉ trong 1 ngày 29/12, anh và nhân viên đôn đáo đi “nhờ vả” đã huy động được 30 tỷ đồng tiền mặt, chưa kể trên 10 tỷ đồng được chuyển khoản. “Chỉ trong buổi sáng lượn một vòng qua mấy doanh nghiệp thân quen, anh em đã có thể đếm tiền cật lực đến tận 7h tối. Mệt nhưng mà vui,” vị lãnh đạo này khoe.

...Và nỗi lo lãi suất

Cũng chính vì yêu tố “thời vụ” nên mới có chuyện cứ vào dịp cuối năm là ngân hàng vắt chân lên cổ lo chạy tiền, còn nhiều doanh nghiệp lại ung dung “kiếm tiền” ngay trên lưng chính ngân hàng!

Lãnh đạo một ngân hàng cổ phần cho biết, do áp lực phải huy động bằng được nên nhiều ngân hàng đã đẩy lãi suất lên tới 16%/năm, trong khi lãi suất cho vay tối đa là 12%/năm.

Chính vì vậy, nhiều doanh nghiệp đã đến rút tiền ở các ngân hàng có lãi suất huy động không cao để mang đến gửi tại ngân hàng có lãi suất ở mức hấp dẫn ngất ngưởng đó, để rồi lại được vay tới 90% chính số tiền mình đã gửi với lãi suất chỉ có 12%/năm.

Thậm chí, có ngân hàng từng xôn xao khi một cá nhân có tiền gửi lên tới 350 tỷ đồng chỉ trong 1 ngày đã xin rút hết số tiền trên khỏi ngân hàng, với lý do lãi suất tại ngân hàng đó chỉ “kịch đường” là 12%/năm trong khi một ngân hàng khác đang mời chào lãi suất tới 16%/năm. Thế là, cũng chính vị khách này, sau khi đã gật đầu đồng ý chuyển sang gửi tiền tại ngân hàng nọ, lãnh đạo ngân hàng đó ngay lập tức cho xe áp giải tiền cùng vệ sĩ và nhân viên kho quỹ đến ngân hàng kia để rút tiền...

Trong những trường hợp như vậy, ngân hàng mà khách hàng rút tiền chỉ còn biết “ngồi khóc” vì không có cách nào giữ chân, thậm chí còn bị rơi vào tình trạng mất thanh khoản trong một vài thời điểm nhất định.

Đó là chưa kể, dịp cuối năm nay cũng là hạn nhiều ngân hàng phải tăng vốn để phù hợp với quy định của Ngân hàng Nhà nước.

Áp lực quyết toán, cùng với tín hiệu “thắt chặt” tín dụng từ phía Ngân hàng Nhà nước đã khiến nhiều ngân hàng rơi vào tình thế “tiến thoái lưỡng nan.” Trong khi mải lo với nhiệm vụ của năm 2009, nhiều lãnh đạo ngân hàng cũng không giấu được vẻ lo lắng khi nhìn về năm 2010-năm mà khó khăn của doanh nghiệp đã bị đẩy lên gấp đôi (lãi suất cho vay từ 6,5% lên 12%)!
Theo Vietnam+

10 thay đổi quan trọng bắt đầu từ 1/1/2010

(Dân trí) - Tăng lương tối thiểu tại các doanh nghiệp, đóng bảo hiểm y tế bằng 4,5% lương, công chức 2 năm liên tiếp không hoàn thành nhiệm vụ bị buộc thôi việc, bỏ hình phạt tử hình với 8 loại tội phạm… là những thay đổi có hiệu lực từ ngày đầu của năm mới.

Tăng lương tối thiểu tại doanh nghiệp
Từ 1/1/2010 sẽ điều chỉnh mức luơng tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc ở công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các tổ chức khác của Việt Nam có thuê mướn lao động.
Cụ thể, tại các doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn thuộc vùng I, tức các quận thuộc Tp Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh áp dụng mức tối thiểu 980.000 đ/tháng (trước đây là 800.000 đồng/tháng); Vùng II là 880.000 đồng/tháng(trước đây là 740.000 đồng/tháng); Vùng III là 810.000 đồng/tháng (trước đây là 690.000 đồng/tháng); Vùng IV gồm các địa bàn ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa là 730.000 đồng/tháng.
Lương tối thiểu trong doanh nghiệp sẽ tăng trước lương tối thiểu chung
Thực hiện điều chỉnh lương tối thiểu vùng đối với người lao động Việt Nam làm việc cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế và cá nhân người nước ngoài tại Việt Nam.
Theo đó, mức 1.340.000 đồng/tháng áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn thuộc vùng I; Vùng II là 1.190.000 đồng/tháng; Vùng III là 1.040.000 đồng/tháng và vùng IV là 1.000.000 đồng/tháng.
Công chức 2 năm liên tiếp không hoàn thành nhiệm vụ bị buộc thôi việc
Luật Cán bộ, công chức có hiệu lực 1/1/2010 qui định: Cán bộ công chức 2 năm liên tiếp hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng lực hoặc có 2 năm liên tiếp, trong đó 1 năm hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng lực và 1 năm không hoàn thành nhiệm vụ thì cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền bố trí công tác khác; Nếu 2 năm liên tiếp không hoàn thành nhiệm vụ thì cơ quan, tổ chức có thẩm quyền miễn nhiệm, giải quyết cho thôi làm nhiệm vụ…
Công chức làm sai, nhà nước phải bồi thường
Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước có hiệu lực từ 1/1/2010 qui định, cá nhân, tổ chức bị thiệt hại về vật chất, tổn thất về tinh thần do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án có quyền yêu cầu nhà nước bồi thường.
Luật qui định rõ 11 hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra mà nhà nước phải bồi thường, trong đó có những hành vi phổ biến như trong ban hành quyết định xử phạt hành chính; cấp, thu hồi giấy chứng nhận kinh doanh, giấy chứng nhận đầu tư và một số giấy tờ có giá trị khác; áp dụng thu phí, lệ phí, thuế, tiền sử dụng đất; giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng...
Người thi hành công vụ nếu phạm lỗi cố ý thì buộc phải trả lại một phần kinh phí nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại.
Đóng bảo hiểm y tế bằng 4,5% tiền lương
Kể từ ngày 1/1/2010, mức đóng BHYT của các đối tượng tham gia BHYT là 4,5% của mức tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, trợ cấp mất sức lao động và bằng 3% mức lương tối thiểu đối với học sinh, sinh viên.
Người tham gia BHYT khi đi khám, chữa bệnh theo quy định được quỹ BHYT thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh thì được hưởng: 100% chi phí khám, chữa bệnh đối với các đối tượng là sĩ quan, hạ sĩ quan đang công tác trong lực lượng Công an nhân dân, người có công với cách mạng và trẻ em dưới 6 tuổi; 100% chi phí khám chữa bệnh tại tuyến xã; 100% chi phí khám chữa bệnh trong trường hợp tổng chi phí 1 lần khám, chữa bệnh thấp hơn 15% mức lương tối thiểu…
Nộp thuế thu nhập từ kinh doanh chứng khoán
Từ 1/1/2010, cá nhân có thu nhập từ kinh doanh chứng khoán sẽ phải đóng thuế thu nhập cá nhân. Theo tinh toán, có khoảng 730 nghìn tài khoản của các nhà đầu tư chứng khoán đăng ký tại các công ty chứng khoán sẽ phải nộp thêm một khoản thuế thu nhập cá nhân.
Thời hạn cho việc giãn thuế thu nhập cá nhân đối với kinh doanh chứng khoán đã hết
Người phải nộp thuế có quyền lựa chọn 1 trong 2 phương án mà Tổng cục thuế đã đưa ra: Nộp theo thuế suất 20% trên thực lãi hoặc 0,1% trên giá chuyển nhượng.
Bỏ hình phạt tử hình với 8 loại tội phạm
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự đã bỏ khung hình phạt tử hình đối với 8 loại tội phạm: hiếp dâm; lừa đảo chiếm đoạt tài sản; buôn lậu; làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả; tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy; chiếm đoạt tàu bay, tàu thủy; đưa hối lộ; phá hoại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự. Luật bổ sung thêm tội khủng bố với hình phạt cao nhất là tử hình. Luật có hiệu lực từ ngày đầu tiên của năm mới.
Chậm đưa đất vào sử dụng sẽ bị phạt
Hành vi chậm đưa đất vào sử dụng sẽ bị xử phạt từ 1/1/2010. Theo đó, phạt từ 500 ngàn đến hai triệu đồng đối với hành vi không sử dụng đất trồng cây hằng năm quá 12 tháng liền, không sử dụng đất trồng cây lâu năm quá 18 tháng, không sử dụng đất trồng rừng quá 24 tháng khi chưa được phép của cơ quan có thẩm quyền. Phạt 2 -10 triệu đồng đối với dự án đầu tư chậm sử dụng đất quá 12 tháng hoặc chậm so với tiến độ được duyệt.
Xử phạt hút thuốc lá nơi công cộng
Từ ngày 1/1/2010, chế tài xử phạt hành vi hút thuốc lá tại nơi công cộng như: nhà trẻ, lớp học, rạp chiếu phim, nhà hát, nhà văn hóa, thư viện, các cơ sở y tế, khu vực sản xuất, nơi làm việc trong nhà, nơi có nguy cơ cháy nổ cao và trên các phương tiện giao thông công cộng … bắt đầu có hiệu lực.
Không đơn giản để thực thi việc cấm hút thuốc nơi công cộng
Theo qui định, mức xử phạt sẽ là nhắc nhở, cảnh cáo và phạt tiền từ 50.000 -100.000 đồng. Thanh tra chuyên ngành của các bộ ngành, ủy ban nhân dân các cấp sẽ là lực lượng kiểm soát việc thực hiện và xử phạt hành vi hút thuốc nơi công cộng.
Hát “nhép” sẽ bị cấm
Qui định mới về cấm hát “nhép” cũng sẽ có hiệu lực từ đầu năm 2010. Theo đó, hành vi dùng băng, đĩa hoặc các phương tiện âm thanh khác đã thu sẵn để thể hiện thay cho giọng hát thật của người biểu diễn sẽ bị phạt tiền từ 3 triệu đến 5 triệu đồng.
Cấp phép trở lại kinh doanh karaoke, vũ trường
Sau 4 năm tạm ngưng cấp phép mới, kể từ ngày 1/1/2010, hai hoạt động là vũ trường và karaoke sẽ được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và giấy phép kinh doanh trở lại. Tuy nhiên, điều kiện cũng như thẩm quyền, thủ tục cấp giấy phép kinh doanh, trách nhiệm của chủ kinh doanh vũ trường, karaoke được qui định chặt chẽ hơn trước đây.


Theo Dantri

Ổn định kinh tế vĩ mô, tái cấu trúc nền kinh tế

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. (Ảnh: Đức Tám/TTXVN)

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có bài viết nhân dịp đầu Năm mới, nêu bật 5 nhóm nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu để thực hiện thành công kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2010.

VietnamPlus xin giới thiệu toàn văn bài viết của Thủ tướng:

"Hai năm 2008-2009, nhân dân ta, đất nước ta phải đương đầu và vượt qua nhiều khó khăn, thách thức gay gắt do những biến động bất thường và trái chiều của kinh tế thế giới, làm nặng nề thêm những yếu kém nội tại của nền kinh tế và làm hạn chế khả năng lựa chọn chính sách ứng phó và phát triển của chúng ta.

Bắt đầu là tình trạng lạm phát, giá lương thực, xăng dầu và giá hầu hết các mặt hàng nhập khẩu tăng mạnh, đẩy mặt bằng giá trên thị trường nội địa lên cao. Mặt khác, chính sách tài chính, tiền tệ được nới lỏng trong nhiều năm, nguồn vốn đầu tư của nước ngoài vào thị trường chứng khoán tăng mạnh, tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng tăng cao, đặc biệt là năm 2007 và chúng ta lại buộc phải điều chỉnh một bước giá các mặt hàng than, xăng dầu, điện theo cơ chế thị trường. Tác động tổng hợp của những yếu tố này đã làm chỉ số giá tiêu dùng ở nước ta tăng nhanh lên hai con số, cao hơn một số nước trong khu vực, sản xuất và đời sống gặp nhiều khó khăn, gây lo lắng và phân tâm trong xã hội. Trước thực trạng đó, chúng ta đã đề ra mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, phấn đấu duy trì tăng trưởng hợp lý với 8 nhóm giải pháp đồng bộ nhằm thực hiện nhiệm vụ trọng tâm đột xuất này.

Từ tháng 9 năm 2008, cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế từ Mỹ đã lan rộng trên phạm vi toàn thế giới, tác động nghiêm trọng đến hầu hết các nền kinh tế và đã tác động rất tiêu cực đến nước ta, đặc biệt là xuất khẩu, nguồn vốn đầu tư, thu nhập du lịch và kiều hối, làm suy giảm tăng trưởng, đe dọa ổn định kinh tế vĩ mô và an sinh xã hội.

Sớm nhận thức được ảnh hưởng nặng nề của khủng hoảng, từ đầu quý IV năm 2008, chúng ta đã chuyển mục tiêu từ ưu tiên kiềm chế lạm phát sang ưu tiên ngăn chặn suy giảm tăng trưởng, coi trọng ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội. Chính phủ đã kịp thời ban hành các chính sách kích thích kinh tế, thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất phù hợp với thực tiễn nước ta để thúc đẩy sản xuất kinh doanh, duy trì việc làm và bảo đảm tăng trưởng.

Nhờ sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cộng đồng doanh nghiệp, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Trung ương Đảng, sự quản lý điều hành có hiệu quả của Nhà nước, chúng ta đã thực hiện có kết quả mục tiêu tổng quát của từng năm. Lạm phát đã được kiềm chế, từ giữa năm 2008 tốc độ tăng giá giảm dần và năm 2009 giảm xuống còn 6,52%; tăng trưởng GDP năm 2008 đạt 6,23%. Năm 2009, trong bối cảnh kinh tế thế giới tăng trưởng âm, Việt Nam vẫn là một trong số ít các nước có tốc độ tăng trưởng khá cao, đạt 5,32%; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; an sinh và phúc lợi xã hội được coi trọng; chủ quyền quốc gia, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững; thế và lực của đất nước tiếp tục được tăng cường, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao.

Kết quả Hội nghị các nhà tài trợ quốc tế vào tháng 12 vừa qua với mức cam kết tài trợ cho Việt Nam trong năm 2010 trên 8 tỷ USD, cao nhất từ trước tới nay, cho thấy cộng đồng quốc tế đánh giá cao đường lối đổi mới và sự lãnh đạo, quản lý điều hành phát triển kinh tế-xã hội của Đảng và Nhà nước ta.

Qua hai năm đương đầu với những khó khăn thách thức đã cho chúng ta nhiều bài học và kinh nghiệm quý báu mà nổi lên là:

(1) Muốn phát triển bền vững, phải giữ ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh doanh;

(2) Huy động mọi nguồn lực cho đầu tư, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường với chất lượng, hiệu quả ngày càng cao là yếu tố quyết định để bảo đảm duy trì tăng trưởng và là nguồn lực vật chất để ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội;

(3) Phải bám sát sự vận động của thực tiễn, diễn biến của thị trường, kịp thời điều chỉnh mục tiêu và giải pháp cho phù hợp khi tình thế đã thay đổi; đồng thời phải tổ chức chỉ đạo thực hiện khẩn trương và quyết liệt;

(4) Trong khi tập trung sức ứng phó với các thách thức khó khăn về kinh tế - xã hội, phải đặc biệt quan tâm bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh và tăng cường công tác đối ngoại, tạo thêm môi trường và điều kiện thuận lợi cho ổn định và phát triển;

(5) Sự đồng thuận cao trong hệ thống chính trị và trong toàn xã hội về mục tiêu và các giải pháp là động lực tinh thần quan trọng tạo nên sức mạnh tổng hợp để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ đã đề ra, nhất là trong tình hình phức tạp, khó khăn.

Năm 2010, tuy kinh tế thế giới đã có những chuyển biến tích cực nhưng tín hiệu phục hồi còn yếu. Tăng trưởng kinh tế toàn cầu được dự báo khoảng 3%, mức tăng này chủ yếu là do các nước kích cầu đầu tư và tiêu dùng nội địa; thương mại hàng hóa thế giới chỉ tăng 2,7% so với năm 2009. Những nền kinh tế phát triển, hiện là thị trường xuất khẩu chính và có vốn đầu tư lớn vào nước ta vẫn còn nhiều khó khăn, tăng trưởng của các nền kinh tế này chỉ khoảng 1,3%, nhu cầu nhập khẩu được dự báo chỉ tăng 1,5%, thấp hơn mức tăng chung của thương mại thế giới .

Nhiều nước đang trong quá trình lựa chọn giữa một bên là tiếp tục chính sách kích thích kinh tế, nới lỏng tín dụng và một bên là thu hẹp các chính sách này. Đồng đô la Mỹ, đồng tiền chủ yếu trong thanh toán quốc tế đang biến động, tác động đến giá cả nhiều mặt hàng và các kênh đầu tư. Một số nền kinh tế đang có sự điều chỉnh mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng; chủ nghĩa bảo hộ có xu hướng tăng lên. Trong bối cảnh đó, với một nền kinh tế có độ mở lớn, hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới và còn phụ thuộc khá nhiều vào các yếu tố bên ngoài thì độ rủi ro và tính bất định sẽ còn rất lớn.

Đối với nước ta, năm 2010 là năm có ý nghĩa đặc biệt. Đây là năm cuối thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010 theo Nghị quyết Đại hội Đảng X, năm tiến hành Đại hội Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng, năm kỷ niệm Đại lễ 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội, cũng là năm có nhiều ngày kỷ niệm và nhiều sự kiện quốc tế lớn được tổ chức ở Việt Nam. Vì vậy, việc thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2010 và hoàn thành Kế hoạch 5 năm 2006-2010, tạo tiền đề thuận lợi cho việc thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2011-2020 không chỉ là trách nhiệm chính trị của mỗi cán bộ, đảng viên mà còn là đòi hỏi chính đáng của nhân dân cả nước.

Tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội đã xác định mục tiêu tổng quát cho năm 2010 là: Nỗ lực phấn đấu phục hồi tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao hơn năm 2009; tăng tính ổn định kinh tế vĩ mô; nâng cao chất lượng tăng trưởng; ngăn chặn lạm phát cao trở lại; tăng khả năng bảo đảm an sinh xã hội; chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội; bảo đảm yêu cầu quốc phòng, an ninh; phấn đấu đạt mức cao nhất các chỉ tiêu của Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010.

Tư tưởng chủ đạo trong điều hành phát triển kinh tế-xã hội năm 2010 là tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, trên cơ sở đó mà bảo đảm tăng trưởng kinh tế cao hơn cả về số lượng và chất lượng đồng thời ngăn ngừa lạm phát cao trở lại. Và phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn năm 2009 sẽ tạo thêm điều kiện và nguồn lực để ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội tốt hơn.

Trên tinh thần đó, trong khi phải thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm phấn đấu hoàn thành toàn diện mục tiêu tổng quát và các chỉ tiêu cụ thể của kế hoạch 2010, phải tập trung chỉ đạo thực hiện có hiệu quả 5 nhóm nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu sau đây.

Một là, tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.

Ổn định kinh tế vĩ mô là điều kiện tiên quyết để phát triển sản xuất kinh doanh, ổn định xã hội và phát triển bền vững. Nguyên tắc cơ bản của điều hành kinh tế vĩ mô là phải tôn trọng các quy luật của kinh tế thị trường, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, kết hợp chặt chẽ chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ và giữa các công cụ của chính sách tiền tệ; xử lý phù hợp mối quan hệ giữa lãi suất tín dụng với tỷ giá và cán cân thanh toán quốc tế, đặc biệt là cán cân thương mại; quản lý tốt thị trường ngoại hối và nợ quốc gia; bảo đảm vốn và tính thanh khoản cho nền kinh tế; phấn đấu tăng thu, tiết kiệm chi; thúc đẩy đầu tư, tăng trưởng, ngăn ngừa lạm phát và bảo đảm an toàn hệ thống tài chính, ngân hàng.

Phải phát huy tốt hơn vai trò điều tiết của Nhà nước, nhất là một nước đang trong quá trình chuyển đổi như nước ta, khi mà cơ chế thị trường chưa hình thành đồng bộ, các cân đối của nền kinh tế chưa thật vững chắc và môi trường cạnh tranh vẫn còn khiếm khuyết. Nhà nước can thiệp vào thị trường là để các quy luật của kinh tế thị trường được vận hành theo đúng mục tiêu mà không làm méo mó các quan hệ thị trường và để bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Khi sử dụng các công cụ điều tiết phải hết sức chú ý đến mức độ và thời gian để đạt hiệu quả cao và chi phí thấp. Phải lường trước các phản ứng của thị trường, nếu các phản ứng này có nguy cơ làm sai lệch những cân bằng cơ bản và gây mất ổn định kinh tế vĩ mô thì nhất thiết phải được điều chỉnh kịp thời.

Hai là, tập trung mọi nỗ lực thúc đẩy đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh và tái cấu trúc nền kinh tế.

Ổn định kinh tế vĩ mô tuy rất quan trọng nhưng không chỉ là vấn đề của bản thân chính sách. Chính sách tự nó không quyết định tất cả mà chỉ tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất kinh doanh, huy động và phân bổ các nguồn lực, điều chỉnh các khả năng phát triển và định hướng cho các hoạt động của nền kinh tế. Khả năng điều hành kinh tế vĩ mô còn phụ thuộc vào tiềm lực kinh tế và trên cơ sở tiềm lực kinh tế. Nếu tiềm lực kinh tế không đủ mạnh thì khả năng điều hành kinh tế vĩ mô sẽ bị giới hạn. Vì vậy, việc tháo gỡ mọi khó khăn, huy động các nguồn lực cho đầu tư, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mở rộng sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu là yếu tố quyết định nhất, phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển bền vững.

Nông nghiệp (bao gồm cả lâm, ngư nghiệp) có vai trò rất quan trọng trong xoá đói giảm nghèo, ổn định xã hội, bảo đảm an ninh lương thực và xuất khẩu. Thị trường nông sản, nhất là những nông sản thiết yếu chịu ảnh hưởng ít hơn của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, lại là nhóm hàng có tác động lớn nhất đến mặt bằng giá của nước ta. Phải tập trung chỉ đạo đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp với chất lượng, hiệu quả ngày càng cao nhằm tạo ra nhiều sản phẩm cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, tăng sức mua và nâng cao đời sống của nông dân. Biến đổi khí hậu, bão lụt, hạn hán, dịch bệnh luôn đe doạ sản xuất nông nghiệp, phải làm tốt công tác phòng chống trên từng địa bàn để giảm tối đa thiệt hại.

Phát triển công nghiệp với giá trị gia tăng cao là khâu trung tâm trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta. Để có tốc độ tăng trưởng cao hơn năm 2009, phải tăng nhanh giá trị sản xuất và giá trị gia tăng của ngành công nghiệp. Sự sụt giảm sản xuất và tiêu thụ qua khủng hoảng cho chúng ta thấy rõ hơn khả năng cạnh tranh và nhu cầu của từng loại sản phẩm, ở từng thị trường. Các doanh nghiệp, các ngành, địa phương phải từ góc nhìn đó để bố trí sản xuất trong năm 2010. Hướng chính là tập trung cao hơn cho những sản phẩm có giá trị gia tăng cao, có tỷ trọng thị phần lớn và tốc độ tăng trưởng nhanh, đi đôi với việc phát triển, mở rộng thị trường tiêu thụ; đồng thời phải theo dõi những diễn biến mới đang xuất hiện để chủ động điều chỉnh phù hợp.

Năm 2010, Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư để kích thích tăng trưởng, đồng thời khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển sản xuất kinh doanh. Tăng đầu tư không chỉ tạo ra năng lực sản xuất mới, thúc đẩy tăng trưởng trong ngành xây dựng mà còn tạo ra thị trường cho hàng hoá và dịch vụ, giải quyết việc làm và do đó có tác động lan toả đến toàn bộ nền kinh tế. Vấn đề cấp thiết lúc này là đẩy nhanh tiến độ thi công, sớm đưa công trình vào sử dụng, tạo ra nhiều sản phẩm, qua đó mà góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư. Vì vậy, việc phân bổ vốn, tập trung các nguồn lực cho các công trình hoàn thành trong năm 2010 phải được thực hiện khẩn trương và nghiêm ngặt. Phải kiên quyết chấm dứt tình trạng bố trí nguồn lực phân tán, làm thời gian xây dựng kéo dài, chi phí tăng cao, chậm đưa công trình vào khai thác, hiệu qủa thấp.

Nền kinh tế nước ta đang chuyển sang một giai đoạn mà các quan hệ kinh tế ngày càng đa dạng, phức hợp và đan xen, chuyên môn hoá và hợp tác hoá ngày càng sâu rộng và do đó yêu cầu các loại hình dịch vụ ngày càng cao. Những năm vừa qua, khu vực dịch vụ có tốc độ tăng cao hơn tốc độ tăng GDP, năm 2009 còn cao hơn mức tăng sản xuất công nghiệp, đóng góp ngày càng nhiều hơn cho tăng trưởng kinh tế. Thực trạng này vừa đặt ra yêu cầu vừa tạo ra khả năng phát triển nhanh các loại hình dịch vụ, nhất là các dịch vụ tài chính, thông tin, tư vấn, du lịch, thương mại, vận tải, dịch vụ logicstics...

Đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu, cải thiện cán cân thương mại là một trong những cân đối quan trọng góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng. Mặc dù còn có những khó khăn do kinh tế thế giới phục hồi chậm nhưng tình hình là thuận lợi hơn năm 2009. Cần khai thác tốt hơn các thị trường truyền thống, các thị trường có Hiệp định mậu dịch tư do đồng thời phát triển các thị trường mới, nhất là các thị trường có nhiều tiềm năng ở khu vực Đông Âu, Tây Á - Trung Đông, Châu Phi, Mỹ la tinh. Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam - Nhật Bản có hiệu lực từ ngày 1 tháng 10 năm 2009 sẽ phát huy mạnh hơn trong năm 2010, Hiệp định mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc với khoảng 90% số dòng thuế nhập khẩu của Trung Quốc và 6 nước ASEAN được giảm xuống 0% từ đầu năm 2010 sẽ tạo điều kiện cho hàng Việt Nam tiếp cận thuận lợi hơn các thị trường rộng lớn này. Các doanh nghiệp cần tận dụng các cơ hội mới để tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu.

Thị trường nội địa nước ta là một thị trường lớn, lại có tốc độ tăng trưởng cao và khá ổn định. Liên tục trong nhiều năm, doanh số bán lẻ hàng hoá và dịch vụ luôn tăng ở mức 10%, riêng năm 2009 tăng khoảng 12% (sau khi đã trừ yếu tố tăng giá); dịch vụ phân phối trên thị trường nội địa đóng góp khoảng 14% GDP, sử dụng hơn 5 triệu lao động, chiếm tỷ trọng cao nhất trong ngành dịch vụ. Các tập đoàn đa quốc gia đã và đang tích cực khai thác thị trường nội địa nước ta.

Năm vừa qua, quán triệt quan điểm thị trường trong nước là cơ sở, thị trường ngoài nước là quan trọng và hưởng ứng phong trào người Việt Nam dùng hàng Việt Nam, thị trường nội địa đã có những khởi sắc mới. Các doanh nghiệp đã chú ý hơn đến khu vực thị trường này, người tiêu dùng Việt Nam đến với hàng Việt Nam ngày càng nhiều hơn. Tuy nhiên, để chiếm lĩnh được thị trường nội địa, trước hết các doanh nghiệp phải nâng cao sức cạnh tranh, quan tâm nhiều hơn đến thị trường nông thôn. Phải làm ra các sản phẩm có chất lượng, phù hợp với từng đối tượng tiêu dùng và tạo ra bản sắc riêng khác biệt của hàng hoá Việt Nam.

Song song đó, phải coi trọng phát triển hệ thống phân phối, coi hệ thống phân phối là cơ sở để xác lập mối liên kết giữa sản xuất, phân phối và tiêu thụ, đồng thời cũng là cơ sở cho việc hình thành kênh lưu thông ổn định. Các cơ quan quản lý nhà nước phải tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước đầu tư phát triển hệ thống phân phối nhằm xây dựng các doanh nghiệp phân phối mạnh của Việt Nam. Điều này phải trở thành tư duy chính trị và hành động thực tiễn của lãnh đạo các ngành và các địa phương. Cần khắc phục tình trạng là trong khi rất quan tâm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đến thiết lập cơ sở phân phối nhưng lại thờ ơ với các doanh nghiệp trong nước.

Mỗi người Việt Nam, trước hết là những người lãnh đạo và quản lý cần quán triệt sâu sắc quan điểm đã được thể hiện trong nhiều nghị quyết của Đảng ta là: Nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng. Thị trường nội địa, lực lượng doanh nghiệp trong nước là những yếu tố quan trọng hợp thành nội lực của đất nước ta.

Phải tháo gỡ mọi khó khăn đang cản trở đầu tư và kinh doanh, thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng thị trường; kiên quyết giảm các thủ tục hành chính, nhất là các thủ tục có liên quan đến gia nhập thị trường, đầu tư, xây dựng cơ bản, kiểm tra hải quan, kê khai và nộp thuế..., góp phần giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Phải kiên quyết cắt giảm tối thiểu 30% các thủ tục hành chính hiện hành. Quyết tâm này của Chính phủ đang chuyển thành hành động của các bộ ngành và địa phương. Điều cần đặc biệt chú ý là phải bảo đảm tính đồng bộ trong hoạt động của các ngành, các cấp; một khâu yếu sẽ làm cản trở và kìm hãm chuyển động của cả hệ thống.

Cùng với cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho đầu tư sản xuất kinh doanh, Chính phủ sẽ hướng mạnh việc hỗ trợ tăng trưởng vào khu vực nông nghiệp và nông thôn, hoàn thiện cơ chế bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo điều kiện để các doanh nghiệp này tiếp cận tốt hơn với các nguồn lực phát triển.

Trong khi tập trung mọi nỗ lực phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn và ngăn ngừa lạm phát cao trở lại, phải hết sức coi trọng chất lượng tăng trưởng. Phải tăng cường công tác giám sát, quản lý chặt chẽ đầu tư công và đầu tư của doanh nghiệp nhà nước; hoàn thiện cơ chế quản lý và trả lương trong khu vực doanh nghiệp nhà nước, tiền lương phải gắn với kết quả kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn, tài sản. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cần rà soát lại các công đoạn của quá trình sản xuất, lưu thông, hoàn thiện quản lý, tiết kiệm nguyên vật liệu, năng lượng, giảm chi phí trung gian, nâng cao hiệu suất sử dụng các nguồn lực, tăng hiệu quả của từng doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Khuyến khích phát triển mạnh các loại hình doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước để làm tốt hơn vai trò trong ổn định kinh tế vĩ mô và nòng cốt trong tăng trưởng.

Để nâng cao chất lượng tăng trưởng và phát triển bền vững, ngoài những việc cần làm ngay như trên, phải thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Đây là điều kiện quyết định để nâng cao sức cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Công việc này phải làm liên tục trong nhiều năm, gắn với quá trình tích luỹ nguồn lực trong từng doanh nghiệp, ở mỗi ngành sản xuất cũng như trong toàn bộ nền kinh tế; vừa phát triển tiệm tiến, vừa đi tắt - bắt kịp trong những lĩnh vực mà khoa học công nghệ thay đổi nhanh và chúng ta có điều kiện. Từ năm 2010 phải đẩy nhanh tiến trình này.

Phải khẩn trương hoàn thiện các tiền đề, điều kiện cho tái cấu trúc. Trước hết là hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường, phát triển mạnh thị trường công nghệ, tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; cải cách mạnh mẽ nền hành chính quốc gia; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; huy động các nguồn lực để xây dựng đồng bộ và hiện đại kết cấu hạ tầng. Phải xác định rõ nội dung của tái cấu trúc, trọng tâm là tái cấu trúc các ngành sản xuất, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, gắn với tái cấu trúc doanh nghiệp và điều chỉnh chiến lược thị trường nhằm tăng nhanh giá trị nội địa và giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ, phát triển lực lượng doanh nghiệp dân tộc, tạo dựng các doanh nghiệp Việt Nam có thương hiệu mạnh, có khả năng tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Đây cũng chính là quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng chủ yếu từ dựa vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng là vốn, khai thác tài nguyên và nguồn nhân lực chất lượng thấp sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, chủ yếu dựa vào các nhân tố năng suất tổng hợp như khoa học công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao và kỹ năng quản lý hiện đại, qua đó mà nâng cao mức đóng góp của các yếu tố này vào tăng trưởng. Các doanh nghiệp cần nhận thức sâu sắc rằng trong thời đại khoa học công nghệ phát triển nhanh như hiện nay, các yếu tố năng suất tổng hợp có vai trò quyết định đến chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Trong quá trình này, Nhà nước tạo môi trường và điều kiện, còn cộng đồng doanh nghiệp phải là lực lượng quyết định.

Trong năm 2010, Chính phủ tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất tín dụng để doanh nghiệp đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất. Tuy nhiên, đổi mới thiết bị công nghệ phải luôn gắn liền với mô hình tổ chức và mô hình quản trị mới, tạo nên hiệu quả tổng hợp và thúc đẩy tăng trưởng bền vững.

Ba là, tập trung giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, phấn đấu đạt được những bước tiến cụ thể trên các lĩnh vực quan trọng và nhạy cảm này

Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị của chúng ta đã có nhiều cố gắng thực hiện các nhiệm vụ trong lĩnh vực xã hội và đã đạt được những kết quả nhất định, đặc biệt là trong lĩnh vực giảm nghèo, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội. Tuy nhiên, những kết quả này vẫn chưa vững chắc, tỷ lệ tái nghèo còn cao, việc giải quyết một số vấn đề xã hội bức xúc tiến bộ còn chậm. Những bất cập này làm hạn chế thành tựu của chúng ta. Nhân dân cảm nhận thành quả của phát triển kinh tế - xã hội một cách thực tế và cụ thể thông qua cuộc sống của chính mình và môi trường xã hội mà họ phải đối diện hàng ngày. Nhân dân đang đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải tạo được chuyển biến thực sự trên những lĩnh vực này. Đây còn là tiêu chí quan trọng thể hiện tính ưu việt của chế độ ta.

Không thể giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc trong một thời gian ngắn nhưng phải tạo được những bước tiến rõ rệt, tập trung vào một số vấn đề sau đây:

(1) Triển khai nhanh và có hiệu quả Chương trình giảm nghèo tại 62 huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất, đi đôi với việc giảm tỷ lệ nghèo và chống tái nghèo ở các vùng khác;

(2) Cải thiện điều kiện, chất lượng khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe của nhân dân, gắn liền với việc bảo đảm vệ sinh-an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường;

(3) Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, nhất là chất lượng giáo dục đại học, cao đẳng và dạy nghề;

(4) Phòng chống có kết quả nạn tham nhũng, các loại tội phạm và tệ nạn xã hội;

(5) Giảm tình trạng ùn tắc giao thông và ngập úng ở các đô thị lớn.

Biện pháp cơ bản để thực hiện các nhiệm vụ trên đây là hoàn thiện hệ thống pháp luật, các cơ chế chính sách, tiêu chuẩn đánh giá và chế tài xử lý; tăng cường phổ biến và giáo dục pháp luật; thực hiện công khai và minh bạch; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm; Nhà nước tăng đầu tư đi đôi với huy động mọi nguồn lực của xã hội; đề cao trách nhiệm của các ngành, các cấp, trước hết là người đứng đầu, đồng thời phát huy tính tích cực của cả hệ thống chính trị tham gia vào việc giải quyết các nhiệm vụ bức xúc này.

Bốn là, nâng cao năng lực chỉ đạo và tổ chức thực hiện, đưa chính sách và mục tiêu phát triển thành hiện thực trong cuộc sống

Một trong các chức năng cơ bản của lãnh đạo là tổ chức thực hiện. Kết quả tổ chức thực hiện thể hiện sức mạnh của bộ máy, bản lĩnh, năng lực của cán bộ và tính đúng đắn của cơ chế, chính sách.

Phải tổ chức thực hiện khẩn trương và có hiệu quả, nói đi đôi với làm. Các cấp uỷ Đảng và chính quyền từ trung ương đến cơ sở, nhất là người đứng đầu phải sâu sát và kịp thời xử lý những vấn đề phát sinh trong thực tiễn. Chỉ đạo kiên quyết và tổ chức thực hiện khẩn trương, quyết liệt để không những chuyển chính sách thành nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội mà còn giúp hoàn thiện chính sách ngày càng sát đúng hơn, phù hợp với yêu cầu của cuộc sống và nguyện vọng của nhân dân. Thông qua tổ chức chỉ đạo thực hiện sẽ nẩy sinh những giải pháp mới, sáng tạo từ thực tiễn phong phú và sôi động ở từng lĩnh vực, địa phương và trong từng cơ sở.

Năm là, làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền và phổ biến chủ trương chính sách, tạo sự đồng thuận cao trong hệ thống chính trị và trong toàn xã hội từ nhận thức đến hành động

Phát triển là một quá trình vận động tổng hợp với nhiều mục tiêu, lại có sự gắn kết, tương tác giữa kinh tế, xã hội và môi trường, trong đó có những mục tiêu cụ thể trong ngắn hạn có thể là mâu thuẫn nhau. Toàn cầu hóa làm quá trình tái sản xuất mở rộng trong không gian và biến đổi nhanh theo thời gian, các động thái phát triển nhiều khi vượt qua khả năng dự báo và các mô hình tính toán. Hơn nữa, không một cơ chế, chính sách nào có thể bao quát mọi hiện tượng kinh tế - xã hội. Vì vậy, có những ý kiến khác nhau về một chính sách cụ thể nào đó cũng là điều bình thường. Quan trọng nhất là khi đã quyết định, phải tập trung mọi nỗ lực để thực hiện có kết quả các nhiệm vụ, giải pháp và mục tiêu đã xác định.

Phải công khai và minh bạch thông tin, làm rõ chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Công tác thông tin tuyên truyền phải vì lợi ích của đất nước, của nhân dân và phải kịp thời bác bỏ những thông tin thất thiệt; tạo ra nhận thức đúng đắn và sự đồng thuận xã hội cao, hành động theo cùng một hướng. Điều này càng cần thiết trong điều kiện nước ta vốn đi lên từ một nền sản xuất nhỏ, tư tưởng tiểu nông và tâm lý “đám đông” còn khá nặng nề. Thời gian qua chúng ta đã ngày càng làm tốt hơn yêu cầu này. Cần làm tốt hơn nữa trong thời gian tới.

Tình hình kinh tế thế giới đang biến động rất khó lường. Cần theo sát các động thái phát triển để có phản ứng chính sách nhanh nhạy và phù hợp nhằm tận dụng các thời cơ mới xuất hiện, đồng thời có giải pháp khắc phục những khó khăn mới nẩy sinh, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn và giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội.

Phải sâu sát thực tế, chỉ đạo và hành động quyết liệt, dám chịu trách nhiệm, đương đầu và vượt qua khó khăn, hoàn thành toàn diện các chỉ tiêu kinh tế-xã hội; gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, bảo vệ lợi ích chính đáng và chủ quyền quốc gia, tiếp tục nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Đây là sự chuẩn bị tốt nhất cả về tư duy phát triển và công tác nhân sự cho Đại hội Đảng bộ các cấp, cũng là hành động thiết thực nhất để chào mừng Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng và các sự kiện trọng đại trong năm 2010."/.
Theo Vietnam+

Bất động sản Tp.HCM sẽ “ấm” hơn trong năm 2010

picture

Tp.HCM là một trong những địa điểm được đánh giá cao về tiềm năng phát triển và cơ hội kinh doanh trong lĩnh vực bất động sản.

Nhiều chuyên gia đã nhận định, Tp.HCM sẽ tiếp tục là điểm thu hút đầu tư trên thị trường bất động sản


Trước tình hình thực tế về nguồn cung, cầu hàng hóa bất động sản, những ngày cuối năm 2009, nhiều chuyên gia đã nhận định, Tp.HCM sẽ tiếp tục là điểm thu hút đầu tư trên thị trường bất động sản.

Theo báo cáo về “Xu hướng mới nổi trong thị trường bất động sản tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương năm 2010” do Viện Quản lý đất đô thị tại Mỹ (ULI) và Công ty PricewaterhouseCoopers thực hiện thì thị trường bất động sản thuộc khu vực châu Á - Thái Bình Dương đang có dấu hiệu khởi sắc. Và Tp.HCM là một trong những địa điểm được đánh giá cao về tiềm năng phát triển và cơ hội kinh doanh trong lĩnh vực đầu tư bất động sản. Triển vọng phát triển tại Tp.HCM vẫn rất khả quan, nhìn tổng thể Tp.HCM đứng hàng thứ 3, sau Thượng Hải và Mumbai.

Trong năm 2010, Tp.HCM được đánh giá là sẽ đứng thứ 2 về yếu tố triển vọng phát triển, sau Bangalore và trước Mumbai. Thành phố được xem là có tiềm năng cao thứ nhì ở 2 trong 5 hạng mục phát triển: bất động sản để bán lẻ và làm khách sạn. Xét về bất động sản phục vụ ngành công nghiệp và phân phối hàng hóa, Tp.HCM đứng thứ 4. Ở hạng mục bất động sản làm văn phòng đứng thứ 6 và hạng mục căn hộ chung cư cho thuê đứng thứ vị trí 7.

Trong bản báo cáo, ông David Fitzgerald, chuyên gia về lĩnh vực bất động sản của Công ty PricewaterhouseCoopers Việt Nam, nhận định rằng: “Tp.HCM vẫn tiếp tục là thị trường hấp dẫn các nhà phát triển và đầu tư bất động sản, là địa điểm rất hấp dẫn đối với nhà phát triển có tầm nhìn dài hạn và tiếp cận được nguồn tiền. Thành phố này vẫn là một trong những địa điểm có cơ hội cao nhất tại khu vực Đông Nam á. Năm 2010 sẽ là điểm khởi động của các dự án mới và quy mô lớn”.

Ông Nguyễn Nguyên Thái, Giám đốc Sàn giao dịch bất động sản CBRE Tp.HCM cho rằng, thị trường nhà ở bắt đầu sáng sủa hơn. Sau một thời gian dài thăm dò động thái thị trường, từ cuối 2009, các chủ đầu tư đã sẵn sàng chào bán sản phẩm. Nhà đầu tư bất động sản đã bắt đầu quay lại thị trường và không quá đặt nặng vấn đề về thuế thu nhập cá nhân, tiền sử dụng đất.

Thực tế, tại Tp.HCM nhu cầu về nhà ở vẫn rất lớn. Là trung tâm thương mại kinh tế lớn của cả nước nên thành phố đã thu hút lượng dân cư rất lớn ở các tỉnh, thành khác về sinh sống và làm việc. Theo số liệu thống kê tháng 4/2009, tỉ lệ tăng dân số tại Tp.HCM là 3,5% hàng năm thì nhu cầu nhà ở tại Tp.HCM vẫn tiếp tục tăng cao trong tương lai.

Theo nghiên cứu của CBRE Việt Nam, nguồn cung về nhà ở trong năm tới đây được dự báo là khoảng 5.875 căn có giá bán trung bình từ 800-1.500 USD/m2; nhà có giá rẻ hơn sẽ gần 4.000 căn hộ với giá dưới 800 USD. Các căn hộ cao cấp vẫn giữ ưu thế về số lượng lớn hơn 7.100 căn và giá bán sẽ từ 1.500 USD/m2 đến trên 3.500 USD/m2.

Bước sang năm 2011, số lượng nhà giá rẻ và nhà giá trung bình mới dồi dào hơn chút đỉnh, lần lượt tương ứng với số lượng xấp xỉ khoảng 5.500 căn và 7.167 căn. Tổng cộng sẽ có khoảng 16.909 căn hộ sẽ bung ra thị trường Tp.HCM trong năm 2010.

Trong báo cáo của Công ty VietRess đưa ra hồi tháng 11/2009, phần lớn khách hàng chỉ đủ tiềm lực tài chính mua nhà có giá trung bình 14,6 -17,4 triệu đồng/m2. Tuy nhiên trong thời gian qua, hầu hết các doanh nghiệp chỉ đầu tư xây dựng những dự án căn hộ cao cấp, khiến người dân không thể mua nổi.

Hệ thống cửa hàng, phân phối hàng hóa và trung tâm thương mại cũng được đánh giá còn thiếu hụt chưa đáp ứng được so với sức phát triển của thị trường bán lẻ. Nếu như giá cho thuê mặt bằng văn phòng có xu hướng giảm mạnh trong thời gian qua thì giá cho thuê mặt bằng bán lẻ có tỉ lệ giảm giá thấp hơn nhiều. Những nguồn cung mới về mặt bằng bán lẻ đều có người thuê khi đưa vào hoạt động.

Trong năm 2009, duy nhất chỉ có một dự án trung tâm thương mại Saigon Paragon đưa vào khai thác với 21.229m2 mặt sàn, đã nhanh chóng thu hút các thương hiệu lớn như Jean Paul Gautier, Thierry Mugler, Giorgio Armani, Omega, Givenchuy... đến thuê. Từ cuối tháng 12/2009, trung tâm mua sắm Kumho Asiana Plaza chính thức đưa vào khai thác với 7.000m2. Từ năm 2010, nguồn cung mặt bằng sẽ được bổ sung nhiều hơn.

Theo đánh giá của VietRees, thị trường bất động sản nếu có xuất hiện sụt giảm thì chỉ là cục bộ, sẽ nhanh chóng phục hồi. Năm 2010, như dự báo của các chuyên gia trong ngành, bất động sản sẽ dần tăng trở lại, đặc biệt là vào dịp cuối năm. Đồng thời, 2010 còn là thời điểm trên thị trường sẽ diễn ra sự cạnh tranh khốc liệt về giá cả, chất lượng của các nhà phát triển bất động sản để tìm kiếm khách hàng và chiếm lĩnh thị trường.

Như khảo sát của công ty nghiên cứu thị trường TNS thực hiện trong năm 2009, 81% người được hỏi trả lời mua nhà dựa vào chất lượng và giá cả; 71% quan tâm đến những thương hiệu uy tín. Vì vậy, các chuyên gia cũng nhận định là 2010 hàng hóa trên thị trường bất động sản sẽ chất lượng hơn.
Theo Vneconomy

Đua nhau 'chạy' thuế cuối năm

Xem hình

Thời điểm cuối năm, hàng trăm doanh nghiệp, cá nhân đổ xô đi mua hóa đơn đỏ và đóng thuế trước bạ để tránh thuế suất cao trong năm 2010. Tại một số chi cục thuế, lượng người dân tăng đến 6 lần.

Những ngày cuối năm, tại một số chi cục thuế như Đống Đa, Hoàn Kiếm (Hà Nội), lượng khách hàng đến mua hóa đơn đỏ và đóng thuế trước bạ tăng vọt. 14h ngày 30/12, Chi cục Thuế Đống Đa có đến trăm người, bãi để xe chật kín. Nếu như tháng 9, chi cục bán ra 2.650 quyển hóa đơn đỏ thì đến tháng 12, con số này tăng gấp 2 lần. Tính trung bình mỗi ngày trong tháng 12, chi cục bán ra khoảng 200 quyển.

Tình trạng tương tự diễn ra tại Chi cục Thuế quận Hoàn Kiếm. Ông Nguyễn Sỹ Viễn, Chi cục phó tại đây cho biết số lượng cá nhân, doanh nghiệp đến mua hóa đơn đỏ hoặc nộp thuế trước bạ trong ít ngày cuối năm tăng 5-6 lần so với bình thường. Trong ngày 30/12, có những thời điểm mà diện tích 210 m2 của Chi cục này có tới hàng trăm người chờ đợi.

Chi cục thuế quận Hoàn Kiếm vẫn chật kín người dù sắp hết giờ làm việc. Ảnh: N.M

Lỉnh kỉnh với báo cáo tình hình sử dụng hóa đơn, giấy giới thiệu, chứng minh thư, chị Nguyễn Thu Huyền kế toán viên một doanh nghiệp hóa dầu cho hay, chị phải chờ từ đầu giờ chiều đến 15h vẫn chưa mua được vì lượng người quá đông. Cũng theo chị Huyền, những tháng cuối năm doanh nghiệp phải tranh thủ mua hóa đơn do doanh số bán hàng tăng nhanh, lượng khách hàng yêu cầu hóa đơn đỏ rất lớn. Chị mới mở thêm 2 cửa hàng xăng dầu ở thành phố, căn cứ vào lượng hóa đơn tháng trước nên chỉ được mua một quyển hóa đơn đỏ. "Có những khách hàng yêu cầu xuất hóa đơn đỏ, nhưng chúng tôi không biết xoay sở thế nào, chỉ còn biết khất", chị giải thích.

Trong năm 2009, Chính phủ áp dụng chính sách giãn, giảm thuế 50% đối với 24 nhóm mặt hàng nhằm kích thích hoạt động sản xuất, kinh doanh. Sự hỗ trợ này sẽ chấm dứt vào ngày 1/1/2010 để đưa thuế suất về đúng mức quy định. Điều này khiến không ít doanh nghiệp phải tính chuyện “chạy” thuế trước “giờ G”.

Với các trường hợp nộp thuế trước bạ xe ôtô, nếu phải chuyển sang nộp trong năm 2010, người nộp thuế sẽ mất thêm hàng chục triệu đồng. Phí trước bạ với xe dưới 10 chỗ ngồi hiện là 6% sẽ trở về mức 12% sau hai ngày nữa. Ông Viễn cũng cho biết tình trạng quá tải tại các Chi cục thuế chắc chắn sẽ kéo dài đến hết ngày 31/12.

Anh Nguyễn Lương, một khách hàng cá nhân vừa mua chiếc Toyota Camry 2.4 nên phải nhanh tay nộp thuế trước bạ để được giảm 6%. "Thay vì phải đóng thuế 12%, thuế trước bạ được giảm một nửa. Thuế suất đóng tại thời điểm cuối năm sẽ khoảng 55 triệu đồng, sang 2010 mức thuế sẽ là 100 triệu đồng. Kiểu gì tôi cũng phải đóng thuế trong hôm nay", anh tiết lộ.

Theo quy định của Bộ Tài chính, lượng hóa đơn đỏ mà một doanh nghiệp được mua trong tháng không được nhiều hơn lượng đã sử dụng ở tháng liền trước đó. Nếu sử dụng hết lượng đã mua thì mỗi lần mua thêm phải có văn bản báo cáo và chỉ được mua thêm mỗi lần một quyển (giá 15.200 đồng một quyển 50 liên). Quy định này của Bộ Tài chính khiến nhiều doanh nghiệp đứng ngồi không yên.

Tranh thủ nộp thuế trước 1/1/2010, người mua ôtô tiết kiệm được cả chục triệu đồng. Ảnh: N.M

Chị Trần Thị Huệ, kế toán một doanh nghiệp tư nhân cho biết mình và đồng nghiệp phải thay phiên nhau chầu chực hơn nửa ngày trời mà chưa tới lượt mua được hóa đơn đỏ. Chờ đợi từ 8 giờ sáng đến gần 4 giờ chiều, cuối cùng chị Huệ cũng đã mua được hóa đơn đỏ.

Không được may mắn như chị Huệ, chị Lê Thanh Nga do đến muộn trong buổi sáng nên nhận được số thứ tự rất “sâu”. Chị cho biết nếu không kịp mua hôm nay thì đến ngày mai sẽ phải xếp hàng lại từ đầu. Trong trường hợp xấu hơn, không thể mua hóa đơn đỏ trong ngày cuối cùng của năm, công ty chị chỉ còn cách… nói khó với khách hàng.

Theo ông Nguyễn Sỹ Viễn, nguyên nhân chủ yếu của việc các doanh nghiệp đổ xô đi mua hóa đơn đỏ trong những ngày cuối năm chủ yếu là nhằm mục đích… “chạy” thuế. Cũng theo ông Viễn, không chỉ có hóa đơn đỏ, lượng người tranh thủ đến nộp thuế trước bạ ôtô trước ngày 1/1/2010 cũng tăng đột biến.

Ông Viễn cũng cho biết những doanh nghiệp phải xếp hàng mua hóa đơn đỏ chủ yếu có hợp đồng được ký trong năm 2009 nhưng chỉ chưa hoàn tất công trình hoặc chưa giao hết trong năm. Tuy nhiên nếu tiếp tục đẩy việc thanh toán sang năm 2010 thì những hóa đơn sau sẽ bị áp mức thuế gấp đôi hiện nay. Chính vì lý do này mà doanh nghiệp rất cần hóa đơn đỏ trong những ngày cuối năm.

Cũng cùng chung nhận định trên ông Phùng Mạnh Quyền, Chi cục phó Chi cục Thuế Đống Đa cho hay, doanh nghiệp phải đẩy nhanh tiến độ đóng thuế vào cuối năm để miễn 50% thuế trước bạ. Cũng theo ông Quyền, thực tế đã có trường hợp doanh nghiệp thành lập để mua hóa đơn đỏ từ chi cục thuế sau đó bán lại. Bởi vậy, chi cục phải kiểm tra rất khắt khe trước khi bán hóa đơn đỏ.

"Trước đó, một số doanh nghiệp đã được in thử nghiệm hóa đơn đỏ nhưng vẫn phải chịu sự kiểm soát của Cục Thuế. Chúng tôi cũng khuyến khích các doanh nghiệp tự in để chủ động hơn tránh trường nhiều người dân đổ xô đi mua vào thời điểm cuối năm", ông Quyền khẳng định.

Ông Chi cục phó Chi cục thuế Hoàn Kiếm cho biết, nếu theo quy định này thì một số doanh nghiệp có lượng xuất hàng nhiều như kinh doanh thiết bị tin học, hàng dệt may, giầy dép, ôtô, xe máy… phải đi mua hóa đơn hàng ngày. Với những trường hợp này, Chi cục Thuế cố gắng giải quyết mua với số lượng lớn nhưng trong những ngày cuối năm, nhu cầu nhiều, người đến mua vẫn sẽ phải chờ đợi. "Tình trạng quá tải tại các Chi cục Thuế chắc chắn sẽ kéo dài đến hết ngày 31/12", ông Viễn nhận định.



Theo Vnexpress

20 quỹ đầu tư chứng khoán có tổng vốn 12.757 tỷ đồng

picture

Thị trường đã có 46 công ty quản lý quỹ, 20 quỹ đầu tư chứng khoán được cấp phép hoạt động.

Tính đến cuối tháng 10/2009, tại Việt Nam có 20 quỹ đầu tư chứng khoán với tổng số vốn huy động là 12.757 tỷ đồng


Tính đến cuối tháng 10/2009, tại Việt Nam có 20 quỹ đầu tư chứng khoán với tổng số vốn huy động là 12.757 tỷ đồng.

Ủy ban Chứng khoán Nhà nước vừa có báo cáo sơ bộ về tình hình thị trường chứng khoán trong năm 2009; trong đó cập nhật một số dữ liệu về tình hình hoạt động của các tổ chức trung gian trên thị trường.

Theo báo cáo trên, tính đến cuối tháng 10/2009, thị trường đã có 46 công ty quản lý quỹ được cấp phép hoạt động (do 1 công ty đã giải thể tháng 7/2009) với tổng số vốn điều lệ là gần 1.835 tỷ đồng (năm 2009 chỉ có 4 công ty được thành lập mới); có 20 quỹ đầu tư chứng khoán (4 quỹ công chúng và 16 quỹ thành viên) với tổng số vốn huy động là 12.757 tỷ đồng (1 quỹ giải thể và 1 quỹ tăng vốn); và 29 văn phòng đại diện đang hoạt động.

Ủy ban Chứng khoán cũng cho biết, trong năm 2009, hoạt động của các công ty chứng khoán đã có những dấu hiệu khả quan hơn do sự phục hồi của thị trường và giá trị giao dịch trên thị trường ngày càng tăng.

Do nhiều nhà đầu tư quay lại thị trường, số lượng tài khoản tăng lên đáng kể, nên bộ máy nhân sự của các công ty chứng khoán cũng đã tăng lên và đang dần hoàn thiện. Số lượng tài khoản tính đến cuối tháng 10/2009 là 766.725 tài khoản (trong đó nhà đầu tư có tổ chức là 3.147 tài khoản và nhà đầu tư cá nhân là 763.578 tài khoản), tăng khá mạnh so với đầu năm.

Về hoạt động nghiệp vụ của các công ty chứng khoán, tổng giá trị giao dịch 9 tháng đầu năm là 1.085.265 tỷ đồng, bình quân giá trị giao dịch 1 tháng là 108.526 tỷ đổng; tổng phí môi giới 9 tháng đầu năm là 1.950.635 tỷ đồng. Số công ty chứng khoán thua lỗ giảm từ 62 công ty xuống còn trên 20 công ty.
Theo Vneconomy

Tăng thuế nhập khẩu thức ăn chăn nuôi: Chỉ thiệt nông dân?

picture

Người chăn nuôi lo lắng khi thuế nhập khẩu thức ăn chăn nuôi tăng.

Từ ngày 1/1/2010 nhiều loại nguyên liệu làm thức ăn chăn nuôi sẽ đồng loạt tăng thuế nhập khẩu


Từ ngày 1/1/2010 nhiều loại nguyên liệu làm thức ăn chăn nuôi sẽ đồng loạt tăng thuế nhập khẩu, với mức tăng phổ biến khoảng 5%. Cụ thể bắp, bột cá, bột xương thịt, cám mì từ 0% lên 5%; bột mì từ 10% lên 15%, dầu cá từ 5% lên 7%...

Mặc dù hiện chưa chính thức áp dụng biểu mẫu thuế mới nhưng trên thị trường ở Tp.HCM và các tỉnh miền Đông Nam Bộ giá bán thức ăn chăn nuôi đã bắt đầu rục rịch tăng, đẩy giá một số mặt hàng thực phẩm tiêu dùng tăng theo. Nông dân bắt đầu lo lắng, người tiêu dùng cũng lo ngại.

Hiện tại các chợ ở trên địa bàn Tp.HCM, giá các loại thực phẩm như thịt heo, thịt gà, thịt bò, giò chả... đã bắt đầu tăng rõ rệt dù Tết Nguyên đán vẫn còn hơn 1 tháng nữa mới tới.

Cần điều chỉnh lại mức thuế

Năm 2009 đã là một năm khó khăn đối với người chăn nuôi trong nước. Hầu hết số hộ chăn nuôi nhỏ lẻ ở các quận, huyện ngoại thành Tp.HCM đều lỗ, nếu có lời thì là do lấy công làm lợi hoặc nhờ thức ăn thừa của các tiệm ăn cung cấp. Ông Hai Nhật Bổn, một hộ chăn nuôi heo ở KP2, phường Thạnh Xuân, quận 12 cho biết: “Nếu giá thức ăn chăn nuôi mà còn tăng nữa thì nuôi khoảng vài chục con thì lỗ ít, còn nuôi tập trung từ vài trăm con heo, vài ngàn con gia cầm trở lên đều phải lỗ từ 5% đến 10%. Khỏi cần phải tính toán vì hiện giá thức ăn chăn nuôi như lúc này phải nuôi số lượng rất lớn mới có lời”.

Ông Nguyễn Thanh Sơn, Phó cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho rằng: “Thời gian vừa rồi, các doanh nghiệp của chúng ta đã nhập khẩu nguyên liệu thức ăn chăn nuôi đúng vào thời điểm giá nguyên liệu trên thế giới đang tăng cao, thị trường ngoại tệ lại đang biến động, do đó đã lập tức làm giá thức ăn chăn nuôi trong nước tăng lên. Đó là chưa kể tình trạng một số doanh nghiệp biết trước việc tăng thuế suất nhập khẩu đã gom hàng và cố tình đẩy giá lên”.

Theo Cục Chăn nuôi, hiện giá thức ăn chăn nuôi trong nước đã tăng tới 20% so với tháng trước. Với mức tăng thuế nhập khẩu theo biểu mới cộng với mức 5% thuế VAT, nhiều mặt hàng thức ăn chăn nuôi dự báo sẽ tiếp tục biến động vào tháng tới theo chiều hướng tăng. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết ngành chăn nuôi ở nước ta phụ thuộc lớn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, vì nguyên liệu trong nước chỉ đáp ứng được 30% nhu cầu.

Theo ông Lê Bá Lịch, Chủ tịch Hiệp hội thức ăn chăn nuôi, quyết định của Bộ Tài chính về tăng giá nguyên liệu thức ăn chăn nuôi là hết sức vô lý. Đáng lẽ trước khi ban hành quyết định này, Bộ nên khảo sát, tham khảo ý kiến nông dân, ý kiến của Hiệp hội. Bộ Tài chính làm như vậy chỉ gây thiệt hại cho nông dân. Hiệp hội sẽ sớm trao đổi với Bộ về đề nghị đưa mức thuế này về 0% như năm 2009”.

Ông Lịch cũng cho biết giá thực phẩm trong nước đã ở mức cao so với thực phẩm nhập ngoại. Bởi vậy, nếu giá thực phẩm tiếp tục tăng cao thì sức mua của người tiêu dùng sẽ giảm, nguồn thịt ngoại nhập sẽ lại vào nhiều, nguy cơ về mất an toàn thực phẩm tăng trở lại, người nông dân lại rơi vào vòng luẩn quẩn là không cạnh tranh được với thịt ngoại, lại nhanh chóng bỏ chuồng trại, các doanh nghiệp bán thức ăn chăn nuôi cũng bị ảnh hưởng theo.

Chỉ có nông dân là thiệt

Việc Bộ Tài chính quyết định tăng thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu chế biến thức ăn chăn nuôi sẽ tác động ngay lập tức đến người chăn nuôi. Ông Nguyễn Thành Tươi, chủ trang trại chăn nuôi gia súc ở huyện Bến Cát tỉnh Bình Dương bức xúc: “Một câu hỏi được đặt ra, tăng thuế nhập khẩu như thế ai bị thiệt. Doanh nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi hay nông dân chăn nuôi?.

Theo ông Tươi, doanh nghiệp sẽ không bị lỗ mà chỉ có nông dân chăn nuôi là bị thiệt. Bởi nếu giá thành sản xuất thức ăn chăn nuôi bị đội lên do giá nguyên liệu tăng thì các doanh nghiệp sẽ tìm mọi cách đổ hết các khoản thiệt thòi lên đầu nông dân, và cách tốt nhất, nhanh nhất và an toàn nhất không gì hơn là tăng giá bán thức ăn chăn nuôi lên. Nếu thuế nhập khẩu tăng 5% thì số nguyên liệu này về đến trại sẽ tăng lên 10%, như vậy số đầu heo trong trại tôi nuôi chỉ có lỗ và lỗ...”.

Năm 2009, thuế nguyên liệu thức ăn chăn nuôi chỉ là 0% mà rất nhiều doanh nghiệp đã nhập khẩu thịt gia súc, gia cầm và phủ tạng không bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm gây phản ứng gay gắt trong dư luận xã hội. Năm 2010 thuế nguyên liệu thức ăn chăn nuôi tăng, chắc chắn các doanh nghiệp sẽ tiếp tục nhập khẩu thịt gia súc, gia cầm kém chất lượng, quá thời gian sử dụng.

Như thế, quyết định của Bộ Tài chính không chỉ gây khó khăn cho ngành chăn nuôi trong nước, mà còn tạo điều kiện cho tình trạng vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm phát triển, gây ảnh hưởng sức khỏe người dân.
Theo Vneconomy

Hà Nội: Thưởng Tết cao nhất 337 triệu đồng

picture

Nhiều doanh nghiệp có mức thưởng tết cao hơn năm trước.

Mức thưởng cao nhất dịp Tết Canh dần thuộc về khu vực doanh nghiệp FDI


Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội vừa cho biết, bước đầu đã nắm được tình hình thưởng Tết Canh dần của những doanh nghiệp đóng trên địa bàn thành phố. Theo đó, mức thưởng cao nhất là 337 triệu đồng.

Đây cũng là mức thưởng cao nhất tại khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ((FDI), mức thấp nhất của khối này là 100.000 đồng/người. Mức thưởng bình quân của loại hình doanh nghiệp FDI là 3.363.000 đồng/ người, tăng 6% so với năm 2008 (3.170.000/ người).

Đối với doanh nghiệp Nhà nước mức thưởng Tết cao nhất là 25 triệu đồng/ người, thấp nhất là 1,1 triệu đồng, bình quân 1.860.000 đồng.

Với loại hình doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, mức thưởng Tết cao nhất là 50 triệu đồng/ người, thấp nhất là 25 nghìn đồng/người, bình quân 1.825.000 đồng/người.

Báo cáo của sở này cũng cho biết, thu nhập bình quân năm 2009 của doanh nghiệp Nhà nước là 2,8 triệu đồng/người/tháng. Trong đó tiền lương chiếm khoảng hơn 90% thu nhập, tăng 11,3 % so với năm 2008. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước khoảng cách chênh lệch giữa các doanh nghiệp không lớn, khoảng 3,7 lần.

Doanh nghiệp có mức thu nhập bình quân cao nhất trên 6 triệu đồng/người/ tháng (tập trung vào các ngành dịch vụ), doanh nghiệp có mức thu nhập bình quân thấp nhất là 1,6 triệu đồng (tập trung vào doanh nghiệp dệt, sản xuất giấy..).

Người có mức lương cao nhất ở khối doanh nghiệp FDI là 140 triệu đồng/tháng và người có mức lương thấp nhất là 1,1 triệu đồng/tháng.
Theo Vneconomy

Thập kỷ bùng nổ của các thị trường chứng khoán mới nổi

picture

Biểu đồ so sánh biến động của thị trường chứng khoán Nga, Brazil, Ấn Độ, Trung Quốc và Mỹ từ năm 2000 đến 2009 - Nguồn: NYT/Bloomberg.

Đối với các nhà đầu tư dài hạn, các thị trường chứng khoán đang nổi lên đem đến cho họ nhiều cơ hội


Đối với thị trường chứng khoán Mỹ, thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 này là một “thập kỷ mất mát”. Tuy nhiên, đối với phần lớn các thị trường đang phát triển, đây lại là một thập kỷ tăng trưởng bùng nổ của các chỉ số và lượng vốn đầu tư.

Sự tăng trưởng quá nhanh và mạnh này của các thị trường chứng khoán đang nổi lên khiến không ít nhà chuyên môn lo ngại rằng, tốc độ tăng trưởng như vậy khó mà duy trì được lâu.

Mặc dù thị trường chứng khoán Mỹ nói chung giảm khoảng 1/5 giá trị trong 10 năm qua, các thị trường đang nổi lên như Brazil, Nga, Trung Quốc và Ấn Độ vẫn tăng trưởng với tốc độ 2 hoặc thậm chí 3 con số.

Sàn chứng khoán PFTS Stock Exchange của Ukraine mới được thành lập vào năm 1997, nhưng trong thập kỷ qua, chỉ số của sàn này đã tăng hơn 1.350%. Tại Peru, thị trường chứng khoán tăng 660% trong cùng thời kỳ. Chỉ số Sensex của thị trường Ấn Độ tỏ ra “khiêm nhường” hơn khi tăng 240%.

Đối với nhiều người, những con số này minh chứng cho những thay đổi sâu sắc đang diễn ra trong nền kinh tế toàn cầu. Trong đó, các khoản đầu tư dễ dàng đi xuyên qua các biên giới và vượt qua các múi giờ chỉ bằng một cú nhấp chuột đơn giản trên máy tính. Thêm vào đó, tiữa lúc chờ đợi sự phục hồi hoàn toàn của kinh tế Mỹ, giới đầu tư trên thế giới đang đổ tiền vào các thị trường có tốc độ tăng trưởng cao ở châu Á, Nam Mỹ, Nga và các nước Liên xô cũ.

Ông Allan Conway, người đứng đầu bộ phận các thị trường cổ phiếu mới nổi tại công ty quản lý tiền tệ Schroders có trụ sở tại London cho rằng, sự nổi lên của nền kinh tế nhóm các nước BRIC (chỉ Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc) hiện nay tương tự như sự nổi lên của kinh tế Nhật thời hậu chiến tranh.

Tuy nhiên, trong “cơn sốt” chứng khoán tại các thị trường đang phát triển này, nhiều người có quan điểm lạc quan vẫn tỏ ra thận trọng. Từ thế kỷ 19 tới nay, các thị trường mới nổi đã trải qua không ít những thời kỳ tăng trưởng bùng nổ, để rồi sau đó bước vào những đợt sụt giảm chóng mặt.

Các thị trường này đã lao dốc kinh hoàng vào năm 1997, khi khủng hoảng tài chính với phản ứng dây chuyền của phá giá đồng tiền, phá sản và suy thoái làm rung chuyển châu Á. Vào năm 1998, thị trường Nga sụt giảm hơn 80% sau khi nước này mất khả năng thanh toán nợ.

Gần đây hơn, vào năm 2008, các thị trường mới nổi cũng đã “chìm” theo các thị trường khác trên toàn cầu khi các quỹ đầu tư ồ ạt tháo chạy khỏi các địa chỉ có độ rủi ro cao. Tuy nhiên, sang năm 2009, các thị trường này lại trở thành điểm sáng, với chỉ số MSCI Emerging Markets tăng 73%, so với mức tăng 25% của chỉ số S&P 500 của thị trường chứng khoán Mỹ.

Sau khi các thị trường mới nổi tăng mạnh trong năm 2009, ít người nghĩ tới việc các thị trường này có thể giảm mạnh trở lại trong thời gian trước mắt. Từ sau khủng hoảng tài chính 1998, một số nước đang phát triển đã tăng dự trữ ngoại hối, khắc phục thâm hụt ngân sách và thương mại. Ngoài ra, cùng với sự tăng trưởng kinh tế, các nhà đầu tư trong nước đã trở thành một lực lượng hỗ trợ lớn trên thị trường chứng khoán tại các nước này.

Với mức lãi suất thấp trên khắp thế giới hiện nay, các công ty được tiếp cận với nguồn vốn giá rẻ. Giá hàng hóa cơ bản khởi sắc sau thời kỳ khủng hoảng cũng giúp hỗ trợ tích cực cho thị trường cổ phiếu và trái phiếu tại các nước xuất khẩu các mặt hàng này.

Mặc dù vậy, những vấn đề về tài chính mà tiểu vương quốc Dubai gặp phải gần đây sau khi tập đoàn đầu tư Dubai World phải tuyên bố hoãn nợ đã nhắc nhở mọi người rằng, tại những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng chóng mặt, thị trường có thể lên và xuống rất nhanh.

Ông Mark Mobius, Chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành của quỹ đầu tư Franklin Templeton Investment có trụ sở ở California, Mỹ, đồng thời là một chuyên gia về đầu tư vào các thị trường mới nổi, cho rằng, mặc dù các thị trường này vẫn còn khả năng tăng tiếp, nhưng nửa đầu năm 2010 sẽ là một quãng thời gian không hề dễ dàng. “Xu hướng tăng vẫn sẽ tiếp diễn, nhưng những đợt điều chỉnh lớn với biên độ lên tới 20% có thể xảy ra”, ông Mobius nói.

Một số chuyên gia khác lo ngại rằng, những bong bóng tài sản tương tự như khối bong bóng đã hình thành và vỡ tung trên thị trường địa ốc Mỹ đang dần to lên tại một số thị trường như Trung Quốc và Hồng Kông. Một số khác thì lo lắng trước những rủi ro từ giá hàng hóa cơ bản nhiều biến động, cũng như việc thời kỳ lãi suất siêu thấp hiện nay rồi đến lúc cũng sẽ kết thúc.

Ông Leon Goldfeld, Giám đốc đầu tư tại HSBC Global Asset Management ở Hồng Kông, cho hay, HSBC đã giảm đầu tư vào thị trường chứng khoán châu Á, đồng thời dự báo, thị trường chứng khoán ở khu vực này sẽ giảm 10-15% vào đầu năm 2010. Theo ông Goldfeld, sau khi thị trường điều chỉnh giảm như vậy, những cơ hội tốt để mua vào sẽ xuất hiện.

Đối với các nhà đầu tư dài hạn, các thị trường chứng khoán đang nổi lên đem đến cho họ nhiều cơ hội. Nhìn chung, các nước đang phát triển có mức nợ chính phủ, nợ doanh nghiệp và nợ hộ gia đình thấp hơn ở các nước phát triển. Tốc độ tăng trưởng kinh tế ở đây lại cao hơn ở các nước công nghiệp. Merrill Lynch dự báo rằng, các nền kinh tế mới nổi sẽ tăng trưởng 6,3% trong năm 2010, so với mức tăng 4,4% dự kiến của kinh tế toàn cầu.

Ngoài ra, các thị trường đang phát triển cũng có ưu thế hơn các thị trường phát triển ở một số phương diện khác. Theo Morgan Stanley, giá trị nhập khẩu của các nước BRIC có khả năng đã lần đầu tiên trong lịch sử vượt kim ngạch nhập khẩu vào Mỹ trong năm 2009.

Ở thời điểm hiện nay, các nền kinh tế đang phát triển là đầu tàu tăng trưởng của kinh tế thế giới. Các nền kinh tế này gần như đóng góp toàn bộ sự tăng trưởng trong sản lượng kinh tế toàn cầu năm nay, vì các nền kinh tế phát triển hầu hết đều suy giảm hoặc đi ngang. Theo ông Conway, thậm chí cả khi quá trình phục hồi của các nền kinh tế phát triển được hoàn tất vào năm 2010, thì các nền kinh tế đang nổi lên cũng sẽ chiếm 70-75% sự tăng trưởng sản lượng toàn cầu trong tương lai gần.

Ngoài ra, các nước đang phát triển còn được dự báo là sẽ đóng góp một vai trò lớn hơn trong nền kinh tế toàn cầu. Theo Morgan Stanley, các nền kinh tế này, bao gồm cả Trung Đông, sẽ chiếm 36% GDP toàn cầu trong năm 2010, từ mức 21% trong năm 1999.

Nhưng con số trên tạo ra một sức hấp dẫn lớn đối với giới đầu tư. Theo thống kê của hãng tư vấn EPFR Global, các quỹ tập trung vào thị trường chứng khoán tại các nền kinh tế mới nổi đã thu hút được số tiền kỷ lục 75,4 tỷ USD trong năm nay, vượt xa kỷ lục cũ là 54 tỷ USD thiết lập vào năm 2007.

Tuy vậy, các thị trường mới nổi hiện mới chỉ chiếm một phần nhỏ bé trong danh mục đầu tư của giới đầu tư tại Mỹ và châu Âu, hai trung tâm quản lý tài sản hàng đầu thế giới. Chưa đầy 3% tài sản nằm trong tay các nhà quản lý quỹ tại Mỹ được đầu tư vào các thị trường mới nổi. Theo các chuyên gia, con số này có thể tăng gấp hai lần trong vòng 5 năm tới.

Hiện nay, ngay cả những nhà đầu tư có quan điểm thận trọng cũng muốn nhảy vào các thị trường mới nổi, nhất là khi triển vọng của thị trường Mỹ và châu Âu có phần kém tươi sáng hơn. Sau một thập kỷ ảm đạm của thị trường chứng khoán Mỹ, các thị trường đang phát triển rõ ràng có lực hút không nhỏ, mặc dù các thị trường này có lịch sử đầy biến động.

(Theo New York Times)-Vneconomy

10 điểm đáng chú ý của xuất nhập khẩu 2009

Xuất khẩu tăng mạnh về lượng nhưng kim ngạch giảm gần 10% so với năm 2008 - Ảnh: Anh Quân.

Xuất nhập khẩu của Việt Nam đã có một năm “hụt hơi” và kém rất xa so với kim ngạch đạt được trong năm 2008
Xuất nhập khẩu của Việt Nam đã có một năm “hụt hơi” và kém rất xa so với kim ngạch đạt được trong năm 2008.

Khi kinh tế thế giới đi vào giai đoạn trì trệ, những giải pháp chính sách chỉ có thể thúc đẩy xuất khẩu Việt Nam tăng về mặt lượng. Nỗ lực từ phía Chính phủ đang bị “hãm phanh” bởi các hàng rào kỹ thuật có xu hướng gia tăng trên thế giới, thay thế những bức tường chính sách được “đập bỏ” vì cam kết mở cửa và hội nhập.

VnEconomy điểm lại 10 sự kiện, vấn đề xuất nhập khẩu trong năm 2009 đáng ghi nhớ này.

1. Chính phủ buộc phải điều chỉnh chỉ tiêu xuất khẩu

Sau kết quả tăng trưởng xuất khẩu xấp xỉ 30% trong năm 2008, cuối năm ngoái, Chính phủ trình lên Quốc hội một kế hoạch kinh tế đầy tham vọng, với kim ngạch xuất khẩu năm 2009 dự kiến đạt khoảng 76,7 tỷ USD, tăng 18% so với năm 2008.

Cẩn trọng trước diễn biến kinh tế thế giới có chiều hướng đi xuống, gần 88% đại biểu Quốc hội đã bỏ phiếu tán thành nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2009, trong đó tốc độ tăng trưởng xuất khẩu được điều chỉnh xuống còn 13%.

Tháng 1/2009, kim ngạch xuất khẩu xụt giảm mạnh, chỉ còn hơn 3,7 tỷ USD (năm 2008, kim ngạch xuất khẩu bình quân một tháng đạt gần 5,25 tỷ USD). Dù hai tháng kế tiếp, xuất khẩu có phục hồi, nhưng tiếp đến là giai đoạn trầm lắng hơn với kim ngạch tháng 4 và 5/2009 chưa đầy 4,5 tỷ USD mỗi tháng.

Trong các cuộc họp của Bộ Công Thương với các hiệp hội thời gian này, hầu hết các ngành hàng xuất khẩu chủ lực đều kiến nghị điều chỉnh giảm chỉ tiêu tăng trưởng xuất khẩu, tiêu biểu là dệt may, gỗ, thủy sản…

Cuối tháng 5/2009, Chính phủ buộc trình Quốc hội điều chỉnh kim ngạch xuất khẩu theo hướng giảm mạnh, từ mức 13% xuống còn 3%. Mục tiêu xuất khẩu được điều chỉnh xuống 64,6 tỷ USD kim ngạch.

Trong khoảng 4 tháng kế tiếp, liên tục xuất hiện các điều chỉnh trong ước tính kim ngạch xuất khẩu của Bộ Công Thương.

Cuối tháng 7/2009, Bộ này ước tính kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 61 tỷ USD, giảm khoảng 3% so với con số thực hiện năm 2008. Trong nửa cuối tháng 9/2009, Bộ Công Thương tiếp tục đưa ra các dự báo mà con số được điều chính xuống 59 tỷ USD (giảm khoảng 6,5%); tiếp đó là 56,7 tỷ USD (giảm khoảng 9,5%).

2. Lần đầu tiên sau hơn 20 năm, xuất khẩu giảm so với năm trước

Kết thúc năm 2009, tổng kim ngạch xuất khẩu ước tính đạt 56,584 tỷ USD, giảm 9,7% so với thực hiện năm 2008. So sánh với số liệu tương ứng từ 1986 trở lại đây, năm 2009 là năm đầu tiên kim ngạch xuất khẩu giảm so với năm trước đó.

Đóng góp vào việc giảm kim ngạch xuất khẩu trong năm nay, dầu thô chiếm 69,7%. Tiếp đến, giày dép chiếm khoảng 12,6%; cao su chiếm xấp xỉ 6,8%; cà phê 6,7%; gỗ và sản phẩm gỗ 4,7%; thủy sản 4,4%...

Về nhập khẩu, kim ngạch cả năm 2009 ước đạt 68,83 tỷ USD và giảm 14,7% so với năm 2008. Năm nay là năm thứ hai, sau năm 1998, kim ngạch nhập khẩu giảm so với năm trước đó, nhưng mức độ giảm mạnh hơn (năm 1998 chỉ giảm 0,8%).

Trong các nguyên nhân giảm kim ngạch nhập khẩu, xăng dầu chiếm 40%; sắt thép chiếm khoảng 13,2%; máy móc, thiết bị, dụng cụ và phương tiện chiếm 6,1%; nguyên phụ liệu dệt may, giày dép chiếm 3,5%...

Với diễn biến này, độ mở nền kinh tế, theo cách hiểu là tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, đã giảm mạnh trong năm 2009, từ mức 143,4 tỷ USD của năm 2008 xuống chỉ còn trên 125,4 tỷ USD, giảm tới 12,6%.

2. Nhập siêu được kiềm chế

Diễn biến nhập siêu cũng chứng kiến nhiều bất thường trong năm nay. Quý 1/2009, Việt Nam xuất siêu xấp xỉ 1,5 tỷ USD với cả 3 tháng đầu năm đều có xuất siêu, tuy nhiên, xu thế này không duy trì được lâu. Trong 9 tháng còn lại của năm, nhập siêu gia tăng dần sức ép.

Quý 2/2009, nhập siêu đạt xấp xỉ 3,6 tỷ USD, xóa sạch thành tích xuất siêu của quý 1/2009. Tính cho đến giữa năm, Việt Nam đã nhập siêu gần 2,1 tỷ USD.

Sang quý 3/2009, nhập siêu của Việt Nam đột ngột tăng mạnh. Con số ghi nhận trong 3 tháng này đã đạt trên 4,67 tỷ USD. Quý 4/2009, nhập siêu vẫn duy trì ở mức cao, đạt khoảng 4,8 tỷ USD, trong đó, riêng nhập siêu tháng 11/2009 đã vượt 2 tỷ USD.

So với con số nhập siêu trên 18 tỷ USD của năm 2008, năm nay, chênh lệch thương mại quốc tế đã được kiềm chế chỉ còn khoảng 2/3, đạt gần 12,25 tỷ USD.

3. Giá hàng hóa xuất nhập khẩu giảm mạnh

Đa số các mặt hàng xuất khẩu và nhập khẩu đều tăng về lượng. Nhưng giá của hầu hết các hàng hóa đều theo chiều hướng giảm mạnh trong năm vừa qua, cá biệt có mặt hàng giá bình quân cả năm giảm tới trên 40%.

Về phía xuất khẩu, giá dầu thô xuất bán bình quân cả năm chỉ đạt khoảng 46,3 USD, giảm tới 38,5% so với năm 2008 (năm ngoái, giá xuất khẩu bình quân đạt trên 75,3 USD). Tiếp đến, giá cao su xuất khẩu đã giảm khoảng 32%; cà phê 27%; than đá 26%; gạo 25%; hạt tiêu 24%; hạt điều 13%...

Đối với dệt may, mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất trong năm 2009, giá bình quân xuất khẩu trong năm nay đã giảm từ 10-15% so với năm 2008, theo ước tính của Hiệp hội Dệt may Việt Nam.

Giá hàng hóa nhập khẩu cũng giảm mạnh trong năm vừa qua. Bình quân, giá xăng dầu nhập khẩu đã giảm 42%; lúa mỳ giảm 40%; phân bón 35%; sắt thép 32%; chất dẻo 24%; sợi dệt 15%...

Do xuất khẩu tăng mạnh về lượng, những tính toán sơ bộ của Tổng cục Thống kê cho biết, chênh lệch xuất nhập khẩu năm nay vẫn đóng góp đáng kể vào tăng trưởng GDP, khoảng 30%.

Nếu như tăng trưởng năm 2009 đạt 5,3% như tính toán của cơ quan này, đóng góp của xuất khẩu ròng vào GDP năm này vào khoảng 1,6 điểm %.

4. Hàng nông nghiệp thăng hoa

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản năm 2009 ước đạt khoảng 15,3 tỷ USD, trong đó nông sản đạt trên 8 tỷ USD, thuỷ sản trên 4 tỷ USD, lâm sản trên 2 tỷ USD...

Với kết quả này, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm ngành nông nghiệp năm nay đã vượt dự kiến hồi đầu năm (12 tỷ USD) và chỉ tiêu Thủ tướng Chính phủ giao (14 tỷ USD).

Diễn biến này cũng được xoay chuyển nhanh chóng trong hai tháng gần đây. Việc giá nhiều mặt hàng nông sản như gạo, cao su, hạt tiêu... tăng trở lại đã góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng này.

Nhìn nhận những nhân tố có đóng góp tích cực vào kết quả xuất khẩu năm nay, trong 8 mặt hàng tác động kìm hãm sự suy giảm của kim ngạch xuất khẩu năm 2009, nhóm nông, lâm, thủy sản chiếm một nửa.

Đứng đầu là sắn và sản phẩm sắn. Nhóm hàng này đạt tăng trưởng 52,8% về giá trị trong năm 2009 và đóng góp 3,2% vào việc kìm hãm sụt giảm kim ngạch xuất khẩu. Tiếp đến là hạt tiêu tăng trưởng 14,3% và đóng góp 0,8%; chè 21,3% và 0,5%; cuối cùng là rau quả 6,1% và 0,4%.

5. “Ẩn số” xuất, nhập vàng

Năm 2009 cũng chứng kiến một nhân tố gây đột biến lớn đến kim ngạch xuất nhập khẩu, đó là vàng vật chất. Theo Tổng cục Thống kê, tái xuất vàng quý 1/2009 khoảng 2,287 tỷ USD. Đây cũng là động lực chính khiến Việt Nam xuất siêu trong giai đoạn này.

Tính chung cả năm, xuất khẩu nhóm đá quý, kim loại quý và sản phẩm đã đạt trên 2,7 tỷ USD kim ngạch. Nhân tố này đóng góp tới 32,4% tổng các cản lực đối với suy giảm kim ngạch xuất khẩu.

Cũng liên quan đến diễn biến khá bật thường này, nhiều ý kiến đã chỉ trích Tổng cục Thống kê về việc đưa vàng vào kim ngạch xuất khẩu chung cả nước, cho rằng động thái này là nhằm để làm đẹp con số, và vàng không phải là hàng hóa thông thường…

Trong một diễn biến ngược chiều, đến cuối năm 2009, trước việc giá vàng trong nước đã lên quá cao, có độ chênh lệch lớn so với mặt bằng giá thế giới, Ngân hàng Nhà nước ra quyết định cho phép nhập khẩu một số lượng lớn vàng vật chất.

Theo số liệu của cơ quan thống kê, riêng tháng 11/2009, kim ngạch nhập khẩu vàng đã trên 337 triệu USD. Nếu tính giá vàng ở mức 1.100 – 1.200 USD/oz (1 Troy oz = 31,1 gam), lượng vàng nhập khẩu vào Việt Nam trong tháng 11/2009 tương đương khoảng 9 - 10 tấn.


7. Năm điều chỉnh của chính sách thuế


Trong một năm tình hình xuất khẩu có nhiều khó khăn, vai trò của Chính phủ và các bộ, ngành thể hiện rõ nét. Rất nhiều cuộc họp với các ngành hàng được Bộ Công Thương tổ chức liên tục trong năm qua, nhiều chính sách mới ra đời, đặc biệt liên quan đến thuế xuất, nhập khẩu.

Đáng kể nhất là việc điều chỉnh thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi hàng nghìn dòng thuế theo cam kết trong CEPT/AFTA, ACFTA, AKFTA, AJCEP năm 2009.

Riêng việc thực hiện hiệp định đối tác kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản đã giảm thuế nhập khẩu đối với hàng loạt mặt hàng như ô tô, sữa, đồ điện tử, điều hoà nhiệt độ, điện thoại, thức ăn chăn nuôi, rau quả, gạo...

Cũng trong năm vừa qua, nhằm thực hiện chủ trương kích cầu đầu tư và tiêu dùng, ngăn chặn suy giảm kinh tế, tháo gỡ khó khăn đối với doanh nghiệp, Bộ Tài chính đã ban hành nhiều thông tư hướng dẫn thực hiện việc giãn, giảm, hoãn, miễn thuế, đáng chú ý là việc giảm 50% mức thuế suất thuế giá trị gia tăng theo danh mục hàng hoá của biểu thuế nhập khẩu ưu đãi.

8. Điều chỉnh tỷ giá

Từ biên độ +/-3% được công bố cuối năm 2008, sang đến tháng 3/2009, biên độ tỷ giá VND/USD được điều chỉnh lên +/-5% với tỷ giá bình quân liên ngân hàng sau lần điều chỉnh cuối cùng ở mức 17.034 VND/USD.

Cũng trong thời gian này, trên thị trường tự do giá USD liên tục tăng cao. Chỉ số giá USD bình quân năm 2009 đã tăng 9,17% so với năm trước đó, gây sức ép rất lớn lên chính sách tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước.

Trên thực tế, giá mua và bán được các ngân hàng thương mại công bố liên tục kịch trần, nhiều thời điểm các ngân hàng niêm yết giá mua bằng với giá bán.

Trong các giao dịch mua ngoại tệ với ngân hàng, nhiều doanh nghiệp luôn phải chấp nhận tính thêm vào giá USD chính thức một vài loại chi phí khác. Phần chênh lệch này được các doanh nghiệp gọi đùa là “chi phí không biết đưa vào đâu”.

Neo vào đồng USD trong khi phương tiện thanh toán này mất giá với hầu hết các đồng tiền khác. Tuy nhiên, bản thân VND cũng mất giá so với USD.

Cục Thống kê Lao động Hoa Kỳ công bố hôm 16/12 cho biết, lạm phát khu vực thành thị trong vòng một năm qua, tính đến tháng 11/2009 đã tăng 1,8%. Trong khi đó, lạm phát tại Việt Nam trong 12 tháng qua đã trên 6,5%.

Trước những sức ép kể trên, ngày 25/11, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã công bố mức tỷ giá USD/VND bình quân liên ngân hàng áp dụng cho ngày 26/11/2009 là 17.961 và biên độ được thu hẹp về +/-3%.

9. Kiện chống bán phá giá gia tăng

Theo Hội đồng Trọng tài quốc tế Việt Nam, tính đến hết tháng 7/2009, Việt Nam bị kiện chống bán phá giá 39 vụ, tỷ lệ thua kiện gần 70%, đứng thứ 7 trong 100 nước bị kiện nhiều nhất thế giới. Tuy nhiên, đó chưa phải con số cuối cùng.

Trong năm nay, nhiều vụ kiện chống bán phá giá mới lại tiếp tục, đáng chú ý có các vụ như sau:

Ngày 27/2, Canada chính thức khởi xướng vụ điều tra chống bán phá giá đối với giầy và đế giầy cao su không thấm nước Việt Nam.

Ngày 31/3, hai công ty nhựa Hoa Kỳ đã gửi đơn kiện chống bán phá giá và chống trợ cấp đối với túi nhựa PE Việt Nam.

Ngày 25/7, Cục Điều tra Trợ cấp và Bán phá giá Thổ Nhĩ Kỳ ra quyết định số 2009/26 về việc khởi xướng điều tra chống lẩn tránh thuế đối với sản phẩm máy điều hòa có xuất xứ từ Việt Nam, Indonesia, Philippin, Pakistan và Ai Cập.

Ngày 8/9, Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) điều chỉnh mức thuế chống bán phá giá đối với cả 3 bị đơn bắt buộc gồm Minh Phu Corp (từ 1,66% xuống 0,43%), Phuong Nam (từ 5,6% xuống 0,21%), và Camimex (từ 19,8% xuống mức 0,08%).

Ngày 22/12, Liên minh châu Âu (EU) đã bỏ phiếu chính thức thông qua đề xuất của Ủy ban Châu Âu (EC), kéo dài thêm 15 tháng thời hạn áp thuế chống bán phá giá đối với giày mũ da nhập khẩu của Việt Nam. Mức thuế mà EC áp đặt với giày dép nhập khẩu từ Việt Nam là 10%.

10. Thi nhau dựng rào cản kỹ thuật

Khủng hoảng kinh tế khiến các rào cản thương mại được dựng lên ngày càng nhiều. Các doanh nghiệp Việt Nam đã và đang phải đầu tư, chi phí cả nhân lực và vốn, thiết bị để đáp ứng các yêu cầu mới.

Liên quan đến thị trường Hoa Kỳ, đạo luật Lacey sửa đổi, đạo luật Nông nghiệp Mỹ 2008 (Farm Bill 2008), đạo luật cải tiến an toàn sản phẩm tiêu dùng đều yêu cầu cung cấp chứng nhận xuất xứ sản phẩm, kiểm soát hóa chất, an toàn cháy… Những thay đổi này sẽ tác động trực tiếp đến xuất khẩu nông sản, hải sản, đồ gỗ, dệt may, hàng tiêu dùng...

Đạo luật FLEGT của EU quy định tất cả các chuyến hàng gỗ xuất khẩu vào thị trường EU chỉ được cơ quan thẩm quyền cấp phép sau khi kiểm tra nguồn gốc xuất xứ. Quy định IUU (cũng của EU) bắt buộc mỗi lô hàng thuỷ sản xuất khẩu sang EU phải tuân thủ quy định về khai thác hợp pháp, phải có cam kết của nhà máy chế biến về nguồn gốc sản phẩm…

Hàn Quốc cũng thắt chặt kiểm tra các sản phẩm nhập khẩu theo hình thức OEM (Original Equipment Manufacturing). Các doanh nghiệp Hàn Quốc nhập khẩu sản phẩm từ các công ty gia công ở nước ngoài cần phải kiểm tra cơ sở sản xuất ít nhất một lần trong một năm.
Theo Vneconomy