Các khoản nợ cầm cố dưới chuẩn, hợp đồng hoán đổi khả năng vỡ tín dụng, hay tình trạng nợ nần chồng chất? Steve Forbes, Chủ tịch của Forbes Media và từng là một nghị viên, cho rằng nguyên nhân không nằm ở bất kỳ khoản nào nêu trên cả. Theo góc nhìn của ông, nghiệp vụ hạch toán mark-to-market (MTM) chính là "nguyên nhân chủ yếu" dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống tài chính Mỹ vào năm 2008.
Liệu các nguyên lý kế toán thực sự chịu trách nhiệm cho sự sụp đổ ấy? Với những độc giả không quen thuộc với các thuật ngữ tài chính, nghiệp vụ MTM là hoạt động tái đánh giá một tài sản theo chu kỳ từng quý dựa trên mức giá thu được từ việc bán tài sản này trên thị trường mở, bất kể khoản thu thực sự là bao nhiêu. Bởi vì hoạt động này cho phép không có một đánh giá nào lỗi thời hay có tính mơ tưởng, nên nó là một thành tố chính của cái gọi là phương pháp kế toán giá trị hợp lý. Đồng thời, nó là trung tâm của những tranh luận nóng bỏng nhất về kế toán trong nhiều thập niên qua.
Nhiều chủ ngân hàng bắt đầu công kích phương pháp kế toán giá trị hợp lý khi tình trạng tắt nghẽn đột ngột của thị trường tín dụng vào mùa thu năm 2008 đã đưa mức giá cân bằng của những tài sản trọng yếu mà các định chế đang nắm giữ xuống thấp đến mức chưa từng có. Nhà kinh tế học Brian Wesbury nói hộ quan điểm của nhóm này khi ông tuyên bố rằng "các nguyên tắc hạch toán MTM đã khiến một vấn đề lớn trở nên khổng lồ. Phần lớn các khoản nợ cầm cố, trái phiếu doanh nghiệp và nợ cơ cấu vẫn còn phát huy được tác dụng ban đầu. Tuy nhiên, vì thị trường đã đóng băng nên giá của các loại tài sản này rơi xuống dưới giá trị thật của chúng".
Wesbury và Forbes lập luận rằng nghiệp vụ hoạch toán MTM đã đẩy nhiều ngân hàng đến bờ vực phá sản và buộc họ phải giải chấp tài sản ở mức giá bán tống bán tháo, và điều này còn khiến cho giá trị rơi sâu thêm. Những lập luận này đã thuyết phục được nhiều chính trị gia ở Mỹ và châu Âu lên tiếng kêu gọi đình chỉ phương pháp kế toán giá trị hợp lý mà thay vào đó, sử dụng phương pháp kế toán giá gốc mà theo đó, tài sản sẽ được định giá theo giá mua hoặc giá gốc.
Tuy nhiên, vẫn có nhiều người ủng hộ nghiệp vụ kế toán MTM, những người cũng có thái độ cứng rắn không kém. Lisa Koonce, giáo sư chuyên ngành kế toán của trường ĐH
Các nhóm cổ đông còn đi xa hơn thế khi quả quyết rằng nghiệp vụ MTM càng trở nên cần thiết trong môi trường ngày nay. Nhóm tư vấn đầu tư của Financial Accounting Standards Board (FASB) (Ủy ban tiêu chuẩn kế toán tài chính) còn nhấn mạnh rằng: "Các thông tin về giá trị hợp lý có ý nghĩa cực kỳ quan trọng với những nhà cung cấp vốn và những ai sử dụng các báo cáo tài chính trong giai đoạn thị trường bấp bênh và kèm theo đó là tình trạng khủng hoảng tính thanh khoản". Theo quan điểm này, nếu các ngân hàng không biểu thị trái phiếu của họ theo thị trường, các nhà đầu tư sẽ cảm thấy không chắc chắn về giá trị tài sản và do đó, ngại ngần hỗ trợ tái cấu trúc vốn cho các định chế đang gặp khó khăn.
Vậy nhóm nào đưa ra được lời giải đúng? Có lẽ là không nhóm nào cả. Chúng ta không muốn các ngân hàng phá sản bởi sự suy giảm ngắn hạn về giá của các chứng khoán liên quan đến nợ cầm cố. Chúng ta cũng không muốn che giấu nhà đầu tư về những khoản lỗ của ngân hàng và trì hoãn việc loại bỏ các tài sản độc hại - giống như điều đã từng xảy ra ở Nhật Bản trong thập niên 1990. Để đáp ứng nhu cầu chính đáng của chủ ngân hàng lẫn nhà đầu tư, các nhà chức trách nên tiến hành những phương pháp tiếp cận đa chiều với hoạt động báo cáo tài chính.
Trước khi chúng ta bắt đầu áp dụng những cải cách hợp lý, chúng ta trước hết cần xóa sạch những quan niệm sai lầm về các phương pháp kế toán. Nhiều nhà phê bình thường bày tỏ sự phản đối trước yêu cầu phải bút toán giảm các tài sản đã tổn thất về giá trị hợp lý của chúng, nhưng trên thực tế, tài sản tổn thất là một khái niệm quan trọng với kế toán giá gốc hơn với kế toán giá trị hợp lý. Nhiều nhà báo đã giả định một cách không chính xác rằng hầu hết tài sản của ngân hàng được báo cáo theo giá trị thị trường hợp lý chứ không phải theo giá gốc. Tương tự, nhiều chính trị gia cho rằng hầu hết các tài sản có tính thanh khoản thấp phải được định giá theo giá thị trường dù nhiều nguyên tắc của FASB lại quy định điều trái ngược. Những chuyện tưởng như hoang đường sau sẽ đưa ra một số nghiên cứu gần gũi.
Câu chuyện 1: Kế toán giá gốc không có mối liên hệ nào với giá trị thị trường hiện tại
Những người khởi xướng giá trị hợp lý lập luận rằng giá gốc của các loại tài sản thể hiện trong bảng quyết toán của công ty thường hầu như không có mối liên hệ nào với giá trị hiện tại của chúng. Theo các nguyên tắc kế toán giá gốc, hầu hết tài sản được tính theo giá mua hoặc giá gốc, với một số điều chỉnh nhỏ về các khoản giảm giá trong vòng đời của nó (như trường hợp của các tòa nhà) hay tăng giá đến trước thời điểm đáo hạn (như trường hợp trái phiếu chiết khấu về mệnh giá). Do đó, một tòa nhà thuộc sở hữu của một công ty suốt nhiều thập niên sẽ xuất hiện trong sổ sách với một giá trị thấp hơn rất nhiều so với giá trị thực của nó ở thị trường hiện tại.
Tuy nhiên, thậm chí khi theo kế toán giá gốc, những giá trị trong thị trường hiện tại vẫn được xem như một nhân tố trong các báo cáo tài chính. Các nhà chức trách Mỹ yêu cầu tất cả các công ty kinh doanh đại chúng phải ra soát cẩn thận tài sản của mình theo từng quý để chắc chắn rằng chúng đã bị tổn thất hay không - tức là liệu giá trị thị trường của chúng có thấp hơn giá gốc của chúng trong một thời gian dài hay không. Nếu tổn thất này không mang tính tạm thời, công ty phải ghi giá trị thị trường hiện tại của tài sản trong bảng quyết toán - và ghi các khoản lỗ tương ứng vào báo cáo thu nhập của công ty.
Những tổn thất tài sản vĩnh viễn thường xuyên xuất hiện trong kế toán giá gốc. Chỉ riêng năm 2008, theo báo cáo của Sandler O'Neill & Partners, các ngân hàng Mỹ đã thực hiện bút toán giảm hơn 25 tỷ USD ở dạng lợi thế thương mại từ các thương vụ mua lại vốn đã không còn đáng với giá trị ban đầu nữa. Một ví dụ khác ngoài lĩnh vực ngân hàng là Cimarex Energy, công ty dù vẫn ghi được lợi nhuận hoạt động những phải tuyên bố lỗ trong quý một năm 2009 do các chi phí tổn thất tài sản phi tiền mặt lên đến hơn 500 triệu USD (đã tính thuế) đối với các bất động sản dầu và khí của công ty này.
Điểm mấu chốt là dù dưới chế độ kế toán giá gốc, các định chế tài chính sau cùng sẽ bị buộc phải báo cáo bất kỳ khoản giảm vĩnh viễn nào về giá trị thị trường của các khoản vay và chứng khoán mặc dù quá trình này diễn ra chậm hơn và với khối lượng lớn hơn so với khi áp dụng chế độ kế toán giá trị hợp lý. Hầu hết các giám đốc ngân hàng đều từ chối hình thức bút toán giảm này với lập luận rằng tổn thất của một khoản vay hay trái phiếu bảo đảm bằng tài sản cầm cố nào đó chỉ là tạm thời. Tuy nhiên, khi cuộc khủng hoảng tài chính kéo dài và tốc độ vỡ nợ cầm cố liên tục tăng nhanh, các chủ ngân hàng phải đối mặt với áp lực ngày càng cao từ kiểm toán viên bên ngoài và buộc phải thừa nhận các khoản lỗ vĩnh viễn của những tài sản tài chính.
Câu chuyện 2: Hầu hết tài sản của các định chế tài chính đều quy theo thị trường
Những ai ra sức kết tội phương pháp kế toán giá trị hợp lý thường lập luận rằng các định chế tài chính sẽ chứng kiến phần lớn tài sản của mình được xác định theo giá trị trường mà hiện ngày càng tụt giảm. Trên thực tế, theo một nghiên cứu của SEC vào cuối năm 2008, chỉ 31% tài sản ngân hàng được định giá theo cách này, phần còn lại được tính theo giá gốc.
Vì sao? Theo phương pháp kế toán giá hợp lý, ban quản lý phải chia tất cả khoản vay và chứng khoán thành nhiều nhất là ba nhóm tài sản: tài sản hiện nắm giữ, tài sản hiện được kinh doanh và tài sản sẵn sàng để bán. Nếu ban quản lý có ý định và khả năng nắm giữ các khoản vay hay chứng khoán đến khi đáo hạn, những tài sản này sẽ được ghi bằng giá gốc trong sổ sách kế toán. Hầu hết các khoản vay và nhiều loại trái phiếu được giữ đến khi đáo hạn; người ta chỉ ghi bút toán giảm khi chúng bị tổn thất vĩnh viễn.
Ngược lại, tất cả tài sản được kinh doanh đều được ghi theo giá thị trường theo từng quý. Bất kỳ khoản giảm nào trong giá trị thị trường hợp lý của một tài sản mà ngân hàng nắm giữ sẽ làm giảm phần vốn trong bảng quyết toán và được ghi như một khoản lỗ trong bảng báo cáo thu nhập. Lấy một minh họa đơn giản: một ngân hàng mua lượng trái phiếu trị giá 1 triệu USD và giá thị trường của lượng trái phiếu này sau đó giảm xuống còn 900.000 USD vào cuối quý sau đó. Dù ngân hàng không bán lượng trái phiếu đó đi nhưng trong cột tài sản bên trái bảng quyết toán vẫn xuất hiện khoản giảm 100.000 USD, và cột nguồn vốn bên phải cũng xuất hiện khoản giảm tương ứng (trước khi tính các khoản thuế). Khoản ghi giảm này cũng sẽ lưu chuyển qua bảng báo cáo thu nhập của ngân hàng và được báo cáo như một khoản lỗ trước thuế của quý đó với trị giá tính toán là 100.000 USD.
Nghiệp vụ kế toán cho nhóm tài sản thứ ba - tài sản sẵn sàng để bán - còn phức tạp hơn nhiều. Dù các dạng chứng khoán nợ trong nhóm này được định giá theo thị trường cách mỗi quý nhưng các khoản lời hay lỗ chưa thực hiện phát sinh từ chúng được thể hiện thành một tài khoản đặc biệt trong bảng báo cáo thu nhập của ngân hàng (gọi là "tài khoản OCI [1]") và tăng dần theo thời gian trong bảng quyết toán (gọi là "OCI tích lũy"). Nhờ nghiệp vụ đặc biệt này, các khoản lỗ chưa thực hiện nếu phát sinh cũng không làm giảm thu nhập ròng hay vốn điều lệ của ngân hàng. (Trong khi đó, những khoản vay giữ-để-bán phải được ghi với giá thấp hơn giá gốc hay giá thị trường và bất kỳ khoản giảm giá nào phát sinh cũng phải được thể hiện thành khoản lỗ trên bảng báo cáo thu nhập. Tuy nhiên các loại tài sản này chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong nhóm). SEC cũng nghiên cứu thấy gần một phần ba của 31% lượng tài sản định giá theo thị trường của ngân hàng là các dạng trái phiếu nợ sẵn-sàng-để-bán. Theo đó, lượng tài sản định giá theo thị trường có ảnh hưởng đến thu nhập hay vốn điều lệ của ngân hàng chỉ là 22% vào năm 2008, một con số vẫn còn khiêm tốn.
Câu chuyện 3: Tài sản phải được định giá theo giá thị trường hiện tại cho dù thị trường của những tài sản này không có tính thanh khoản
Phương pháp kế toán giá trị hợp lý sẽ dễ thực hiện nếu như tất cả tài sản tài chính đều thuộc Cấp 1 của FASB, tức có tính thanh khoản cao và dễ định giá theo giá thị trường trực tiếp. Vì không phải lúc nào các loại tài sản cũng hội đủ những đặc điểm này nên FASB tạo ra một tiêu chuẩn gọi là FAS 157 mà cho phép có thể có 2 cấp khác.
Tiêu chuẩn này quy định: bất cứ khi nào có thể, tài sản phải được định giá theo phương pháp Cấp 1: theo cơ sở giá thị trường có thể quan sát được. Nhưng tiêu chuẩn này cũng thừa nhận không phải lúc nào cũng có được giá thị trường, vì thế, nó cho phép các giám đốc tài chính định giá tài sản của mình bằng các yếu tố đầu vào của thị trường mà có thể quan sát được, đây là phương pháp Cấp 2. Các yếu tố đầu vào này có thể bao gồm: giá giao dịch và các khoản chiết khấu của những chứng khoán nào tương tự hay có liên hệ với những tài sản cần được định giá. Khi những yếu tố đầu vào này không sẵn có, ví dụ như khoản đầu tư vào một quỹ đầu tư tư nhân, tài sản sẽ được định giá theo phương pháp Cấp 3.
Khi những tài sản giao dịch được phân vào Cấp 3, vì thị trường thiếu tính thanh khoản hay vì những lý nào khác, các giám đốc tài chính sẽ được phép đánh giá chúng theo phương pháp "quy theo mô hình" chứ không phải quy theo thị trường (MTM). Khi đánh giá tài sản theo mô hình, các giám đốc tài chính có thể sử dụng những giả định hợp lý của mình để ước tính ra một giá trị thị trường hợp lý.
Khi các thị trường nợ đóng băng vào mùa thu năm 2008, FASB công bố một tài liệu nội bộ có nội dung hướng dẫn áp dụng phương pháp kế toán giá trị hợp lý vào những thị trường có tính thanh khoản thấp. Tài liệu này nhấn mạnh tính linh hoạt của tiêu chuẩn 157 và khiến nhiều công ty nhận thức được họ có thể phân loại lại tài sản từ Cấp 2 sang Cấp 3 nếu như tính thanh khoản của thị trường càng suy yếu. FASB còn nhấn mạnh rằng các công ty không được sử dụng các mức giá lấy từ những hợp đồng mua bán bắt buộc hay dành cho tài sản bị tịch biên để định giá các tài sản không có tính thanh khoản.
Tuy nhiên, những quy tắc này không khiến các chủ ngân hàng cảm thấy thoải mái để có thể chứng kiến giá trị thị trường của những tài sản độc hại mà họ đang nắm giữ tuột dốc không phanh; họ gây sức ép lên những nghị viên do họ bầu chọn, những người đã đe dọa biết các tiêu chuẩn kế toán thành luật trừ khi FASB có nhiều giải pháp hơn để xoa dịu tình hình. Kết quả là vào tháng 4 năm 2009, FASB nhanh chóng đề xuất và áp dụng một nguyên tắc mới vạch rõ các tiêu chuẩn cần thiết để xác định đâu là lúc áp dụng hình thức đánh giá quy-theo-mô-hình khi tính thanh khoản của thị trường xuống thấp. Nguyên tắc này được thiết kế để cho phép ngân hàng định giá nhiều loại chứng khoán hơn bằng các mô hình thay cho những chỉ số thị trường. Cũng trong ngày hôm đó, FASB ban hành một nguyên tắc khác quy định cách tính các loại chứng khoán bị tổn thất vĩnh viễn. Nguyên tắc này nêu rõ chỉ phần lỗ-tín-dụng của những tổn thất này mới ảnh hưởng đến thu nhập và vốn điều lệ của ngân hàng, trong khi phần còn lại (chẳng hạn như các khoản lỗ chưa thực hiện liên quan đến tính thanh khoản thấp) sẽ đi vào tài khoản đặc biệt OCI.
Hai nguyên tắc giúp nhiều ngân hàng lớn của Mỹ cắt giảm đáng kể quy mô khoản bút toán giảm trên giá trị của những tài sản có trong quý đầu năm 2009. Hai nguyên tắc này giúp cải thiện bức tranh tài chính ngắn hạn của những ngân hàng lớn mặc dù nó ngăn không cho các giám đốc ngân hàng bán tháo những tài sản độc hại ở mức giá mà các nhà đầu tư nghĩ là hợp lý.
(còn nữa)
- Bài viết của Robert C. Pozen trên Harvard Business Review -
Hoàng Đăng (dịch)
1. Có thể hiểu OCI là một bảng báo cáo thu nhập "con", thể hiện những thay đổi về giá của các khoản tài sản hay nợ mà công ty đang nắm giữ mà từ đó làm phát sinh các khoản lời hay lỗ chưa thực hiện. Các loại tài sản ở đây là chứng khoán, hợp đồng phái sinh, nợ hưu trí và tài sản hoạt động ở nước ngoài.
(Theo Tuần Việt Nam)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét