Ba khuyến nghị để hoạt động báo cáo thiết thực hơn
Vào những tình huống như thế này, nguyện vọng chính đáng của các chủ ngân hàng nhằm mô tả tài sản họ nắm giữ theo cách thuận lợi cho họ nhất nhiều khả năng sẽ xung đột với lợi ích cũng không kém phần chính đáng của các nhà đầu tư để hiểu rõ đâu là những nguy cơ tiềm ẩn của ngân hàng. Vì vậy, chúng ta cần cân nhắc kỹ cách các ngân hàng công bố báo cáo tài chính mà trong đó thường bao hàm cả những thực tế phức tạp về tình hình tài chính của họ.
Tăng cường độ tin cậy của phương pháp "đánh giá quy theo mô hình"
Theo hai công bố mới nhất của FASB về những tài sản thuộc Cấp 3, không còn nghi ngờ việc nhiều ngân hàng sẽ tiếp tục đánh giá những chứng khoán phi thanh khoản bằng phương pháp quy theo mô hình. Trong quý đầu năm 2009, những tài sản Cấp 3 tại 19 ngân hàng lớn nhất nước Mỹ tăng 14,3% so với quý trước. Do ngân hàng được phép đưa ra những đánh giá hợp lý dựa trên các phép tính ước lượng về tỷ lệ lợi nhuận thu được từ các khoản vay dưới chuẩn, chứng khoán đảm bảo bằng nợ cầm cố cũng như nhiều tài sản xấu khác qua nhiều năm, những đánh giá quy-theo-mô-hình thường cho kết quả cao hơn những đánh giá dựa trên các giao dịch mới nhất của các loại tài sản tương tự. Phương pháp đánh giá quy theo mô hình cho phép các ngân hàng vẽ nên một bức tranh lạc quan về tình hình tài chính của họ.
Điều này chắc chắn sẽ khiến những nhà đầu tư thực sự thêm lo lắng về tính chuẩn xác trong những báo cáo đánh giá của ngân hàng về các loại tài sản xấu. Như Warren Buffett từng nhận xét, phương pháp quy theo mô hình có thể thoái hóa thành "quy theo giai thoại".
Chúng ta làm thế nào để hóa giải sự hoài nghi này và duy trì cơ sở cho các đánh giá? Để giúp nhà đầu tư hiểu được cách tính giá trị của tài sản theo phương pháp quy về mô hình, ngân hàng nên công bố một danh sách những tài sản thuộc Cấp 3 và tóm tắt đặc điểm của chúng. Nhưng quan trọng nhất, ngân hàng nên công bố đầy đủ thông tin về những giả định đằng sau các mô hình để cho phép nhà đầu tư theo dõi cách ngân hàng đạt được các đánh giá.
Xóa bỏ sợi dây liên kết giữa kế toán và tiêu chuẩn về vốn
Lời chỉ trích cơ bản nhất nhằm vào phương pháp kế toán giá trị hợp lý chính là phương pháp này khiến cho nhiều ngân hàng phải đứng trước nguy cơ phá sản khi nguồn vốn của họ dần cạn kiệt.
Theo quan điểm của nhiều chủ ngân hàng, phương pháp kế toán giá trị hợp lý tạo nên một khoản giảm "giả tạo" trong giá trị tài sản mà nhiều khả năng sẽ phục hồi khi cuộc khủng hoảng tài chính tạm lắng xuống. Mặc khác, với các nhà đầu tư, không gì giả tạo hơn việc tuyên bố tài sản xứng đáng với mức giá mà thực sự không ai sẵn lòng trả. Hơn nữa, một nhà đầu tư điển hình không có vẻ gì sẽ tin rằng sự tụt giảm về giá trị thị trường của nhiều tài sản mà ngân hàng đang nắm giữ chỉ là một kết quả tạm thời của tình trạng thiếu tính thanh khoản trong hoạt động kinh doanh mà không phải là hậu quả dai dẳng của hàng loạt vụ phá sản.
Có thể không cần thiết phải hợp nhất những quan điểm khác biệt này. Hoàn toàn có thể dung hòa hai quan điểm trên nếu như các ngân hàng buộc phải công bố kết quả tính toán theo phương pháp kế toán giá trị hợp lý mà không làm giảm vốn điều lệ của họ. Như đã giải thích ở phần trên, nếu một ngân hàng có trái phiếu trong nhóm tài sản có-sẵn-để-bán, cứ mỗi quý họ phải định giá chúng theo thị trường - tuy nhiên, các khoản lời hay lỗ chưa thực hiện của những trái phiếu này sẽ không ảnh hưởng đến vốn điều lệ của ngân hàng. Kế toán và các tiêu chuẩn về vốn có thể cũng không liên quan gì nhau ở những lĩnh vực khác miễn là ngân hàng chịu công bố đầy đủ các phương pháp tính khác nhau của họ.
Lấy ví dụ như, những khoản lỗ hay lãi chưa thực hiện hằng quý trên trái phiếu trong danh mục tài sản kinh doanh có thể được phản ánh chính xác trên bảng quyết toán và báo cáo thu nhập của ngân hàng. Nhưng nhằm phục vụ mục đích điều tiết, nguồn vốn của ngân hàng này được tính toán theo cơ sở giá trị trung bình trên thị trường của các loại trái phiếu nói trên trong hai quý gần nhất. Sự kết hợp này giúp các nhà đầu tư biết được giá trị thị trường hiện tại của các loại trái phiếu này đồng thời làm giảm tính bất ổn của nguồn vốn điều lệ tính theo từng quý của ngân hàng.
Tính toán thu nhập ròng trên một cổ phần (EPS) bằng cả hai cách
Nếu những nhà làm luật tiếp tục tách rời phương pháp tính toán vốn của ngân hàng với kế quả tài chính theo phương pháp kế toán giá trị hợp lý, các ngân hàng có lý do để tiếp tục lo lắng khi nguồn thu nhập ròng hằng quý của họ vẫn bất ổn. Thu nhập ròng từng quý của một ngân hàng với tổng doanh thu ròng ổn định từ các khoản phí thu khách hàng và thu nhập ròng từ lãi suất sẽ biến động đáng kể trong từng quý do giá trị thị trường của những loại tài sản và trái phiếu mà họ nắm giữ luôn luôn thay đổi. Và sự bất ổn này có thể khiến giá cổ phiếu của ngân hàng đi xuống nếu như những nhà đầu tư tìm kiếm thu nhập ổn định không thực sự hiểu thấu vấn đề này.
Liệu có thể dung hòa lợi ích của nhà đầu tư và ngân hàng thông qua bảng báo cáo thu nhập của ngân hàng hay không? Có thể. Nếu ngân hàng công bố hai phiên bản EPS của nó trong mỗi quý - một phiên bản được tính theo phương pháp kế toán giá trị hợp lý trong khi phiên bản kia thì không. Giả sử ngân hàng báo cáo EPS trong quý là 54 đồng bao gồm 63 đồng thu nhập hoạt động và 8 đồng lỗ do những khoản lỗ chưa thực hiện theo giá trị thị trường trong danh mục trái phiếu của mình. Ngân hàng khi đó cũng có thể báo cáo EPS là 62 đồng cho một cổ phần kèm theo lời giải thích là EPS này chưa tính các khoản lỗ chưa thực hiện.
Việc công bố 2 phiên bản EPS vào mỗi quý cũng từng được khuyến nghị trong báo cáo mang tên Những cải tiến cho nghiệp vụ báo cáo tài chính do Ủy ban cố vấn của SEC ban hành. Trong bảng báo cáo này, một bảng biểu được sử dụng để thể hiện sự dung hòa tương đối giữa thu nhập ròng theo phương pháp kế toán giá trị hợp lý và dòng ngân lưu vốn loại trừ các điều chỉnh thị trường hợp lý. Phân tích dòng ngân lưu của một công ty từ bảng báo cáo thu nhập của nó là công việc điển hình của nhiều chuyên gia phân tích chứng khoán nhằm hiểu rõ hơn về tình hình tài chính của công ty ấy.
Nếu các ngân hàng thực hiện khuyến nghị của quỷ ban, cả hai nhóm đều được hưởng lợi. Các nhà đầu tư sẽ hiểu rõ hơn về thu nhập ròng của ngân hàng mà bao nhiêu phần trong đó đến từ thu nhập hoạt động, bao nhiêu phần đến từ biến động của thị trường chứng khoán. Đồng thời, giám đốc các ngân hàng cũng có thể giải thích được họ làm cách nào để đạt được nguồn lợi nhuận ổn định từ những chức năng hoạt động kinh doanh chính của ngân hàng, bất kể các biến động về giá của những loại chứng khoán mà họ đang nắm giữ.
-----
Để cuộc tranh luận phức tạp này đi đến kết quả tốt đẹp và để ứng dụng những cải tổ cần thiết, các chính trị gia và giám đốc điều hành doanh nghiệp phải nhận thức được rằng không chỉ có một cách tốt nhất để đánh giá tài sản của các định chế tài chính. Giá trị một số loại tài sản có thể được tính toán chính xác hơn nếu áp dụng phương pháp kế toán giá trị hợp lý trong khi một số khác thì phù hợp hơn với phương pháp kế toán giá gốc. Trong một tương lai không xa, các ngân hàng sẽ áp dụng hệ thống đánh giá hỗn hợp, kết hợp cả hai phương pháp. Theo đó, chúng ta nên xây dựng những tiêu chuẩn báo cáo mới, chẳng hạn như trình bày hai dạng EPS, có khả năng làm rõ các loại thu nhập trong bảng báo cáo thu nhập.
Điều quan trọng cần nhớ là các bảng báo cáo tài chính luôn được nhiều nhóm đối tượng nghiên cứu cẩn thận với nhiều mục đích khác nhau. Các nhà đầu tư sử dụng chúng để đánh giá những rủi ro thị trường cũng như tiềm năng tăng trưởng thu nhập trong khi cơ quan quản lý sẽ sử dụng chúng để đảm bảo rằng ngân hàng có đủ nguồn vốn và thu nhập để duy trì các khoản lỗ phát sinh từ cho vay hay từ những tài sản khác. Với những mục tiêu đó, cơ quan quản lý nên tách rời nghiệp vụ báo cáo tài chính và những yêu cầu về vốn cho các ngân hàng.
Phương pháp kế toán giá trị hợp lý không phải là nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính hiện tại, tuy nhiên cuộc khủng hoảng có thể đã phát sinh từ những ngộ nhận thông thường về các tiêu chuẩn kế toán. Nhiều nhà đầu tư mặc định một cách sai lầm là hầu hết tài sản của ngân hàng đều được quy về giá trị thị trường khi giá trái phiếu giảm đột ngột. Những nhà đầu tư không nhận ra rằng sự tụt giảm đáng kể về giá của các loại trái phiếu sẵn sàng để bán không thể khiến ngân hàng vi phạm những tiêu chuẩn về vốn điều lệ. Nếu chúng ta có thể làm cho những khái niệm kế toán phức tạp này rõ ràng hơn bằng cách áp dụng một phương pháp báo cáo tài chính đa chiều thì khi đó, cả công ty và nhà đầu tư đều được trang bị tốt để phản ứng một cách sáng suốt trước những biến động của thị trường tài chính.
- Bài viết của Robert C. Pozen trên Harvard Business Review -
Hoàng Đăng (dịch)
(Theo Tuanvietnam.net)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét