Để đánh giá về sự phát triển của khối doanh nghiệp tư nhân (DNTN) Việt Nam sau 10 năm thực hiện Luật Doanh nghiệp, gần đây, nhiều cơ quan nghiên cứu, các bộ, ngành cũng đã có những tổng kết, đánh giá và bàn tới những giải pháp nanag cao vai trò của khu vực kinh tế này trong thời kỳ phát triển mới.
Tồn tại thực tế chỉ 50%
Về mặt số lượng, không còn nghi ngờ gì nữa, Luật Doanh nghiệp, với những quy định mang tính đột phá, cởi trói sức sản xuất trong khối doanh nghiệp dân doanh đã khiến khu vực kinh tế tư nhân bung ra rất mạnh.
Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp tính đến 31/12/2008 là gần 380 ngành doanh nghiệp. Với hơn 83 ngàn doanh nghiệp đăng ký kinh doanh mới trong năm 2009, con số doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh khi cộng dồn lại đến tháng 12 năm 2009 được ước tính đạt 460 ngàn doanh nghiệp.
Theo ông Lê Duy Bình, chuyên gia tổ chức Vietnam Ecocomica, đồng tác giả công trình nghiên cứu: "Đánh giá nhanh chất lượng của khu vực kinh tế tư nhân qua quá trình 10 năm thực hiện Luật Doanh nghiệp" mới đây công bố tại Viện Nghiên cứu quản lý Kinh tế Trung ương cho rằng, nếu chỉ tính về số doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh, thì từ số lượng khoảng 31.000 doanh nghiệp vào năm 2000, con số này đã nhanh chóng tăng lên 15 lần trong vỏn vẹn 9 năm. Đây là một tốc độ tăng trưởng hết sức ấn tượng, thể hiện sức sống mãnh liệt của tinh thần kinh doanh của người dân Việt Nam cũng như tác động lớn của những cải cách về môi trường kinh doanh đã được thực hiện, đặc biệt qua Luật Doanh nghiệp (1999 và 2005).
Tuy nhiên, trên thực tế, con số doanh nghiệp tư thực tế có hoạt động lại khác xa với con số đăng ký và điều này đặt ra câu hỏi lớn về chất lượng của công tác hậu kiểm-một vấn đề mà các tác giả soạn thảo Luật Doanh nghiệp năm 1999 đã phải đặt ra. Theo số liệu từ cuộc tổng điều tra doanh nghiệp năm 2009 của tổng cục Thống kê thì cả nước tính đến thời điểm 31/12/2008 có 178.852 doanh nghiệp dân doanh (trong tổng số 201.112 doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế trên cả nước). Đây có thể coi là những doanh nghiệp đã đăng ký và vẫn còn tồn tại và đang hoạt động.
Còn theo số liệu từ Tổng cục Thuế, tính đến hết tháng 3 năm 2009, cả nước có 272.680 doanh nghiệp dân doanh (trong tổng số 289.672 doanh nghiệp khác nhau).
Như vậy, từ những con số về doanh nghiệp thực hoạt động qua thống kê của Tổng cục Thống kê hay những doanh nghiệp đang nộp thuế tại Tổng cục Thuế, có thể thấy rằng, mặc dù số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh lớn nhưng số doanh nghiệp tồn tại được trên thực tế ước tính xấp xỉ 50%.
Vắng bóng DN quy mô
Nhưng vấn đề đáng nói hơn là trong số lượng hùng hậu các DNTN đăng ký mới và còn hoạt động, con số những doanh nghiệp tư nhân lớn còn quá ít ỏi và các doanh nghiệp quy mô vừa cũng vắng bóng (the missing middle).
Trong báo cáo top 500 doanh nghiệp lớn nhất của VietNam Report và VietNamNet công bố, vào năm 2009 chỉ có 28.9% trong số các doanh nghiệp này là của khu vực tư nhân. Con số này có tăng so với mức 24% so với năm 2008 nhưng phần lớn sự tăng trưởng này và cả tỷ trọng lớn trong số các doanh nghiệp tư nhân lớn này là nhờ số đáng kể là DNNN cổ phần hóa.
Số các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, tập đoàn hình thành từ khu vực tư nhân mà lên, trải qua các giai đoạn từ công ty gia đình, doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp lớn chỉ rất giới hạn trong một vài tên tuổi quen thuộc như Đồng Tâm, Kinh Đô, Trung Nguyên, Hòa Phát, Hoàng Anh Gia Lai, Saigon Invest, SSI, CMC..
Còn trong danh sách 200 DN lớn nhất do UNDP công bố thì chỉ có 17 DN tư nhân. Con số này quả là ít ỏi. Báo cáo này cũng cho biết số DNTN thực sự lớn lên từ xuất phát ban đầu là DNTN rất hạn chế. Phần lớn trong số 17 DNTN đó là các doanh nghiệp được cổ phần hóa.
Theo ông Lê Duy Bình, thiếu vắng doanh nghiệp lớn cũng đồng nghĩa với việc trong thời gian trung hạn sẽ khó có thể có một vài DNTN Việt Nam có thể vươn xa hơn tới các quốc gia khác nhằm xây dựng một thương hiệu doanh nghiệp Việt Nam ở quy mô đa quốc gia. Việc xây dựng một hình ảnh thương hiệu Việt được biết tới ở nhiều quốc gia cần có sự đóng góp của những DNTN lớn này và không nên chỉ chỉ dựa vào các tập đoàn kinh tế và các doanh nghiệp nhà nước. Đã có một số DNTN, bằng nhiều hình thức khác nhau, nỗ lực xây dựng một thương hiệu Việt nhằm được biết tới trên thị trường quốc tế như Hoàng Anh Gia Lai, Trung Nguyên, Phở 24, Sacombank, CAVICO... nhưng để trở thành một tập đoàn đa quốc gia theo đúng nghĩa thì quả là còn một chặng đường gian nan.
Rõ ràng là khu vực tư nhân Việt Nam đang gặp một vấn đề về sự thiếu vắng những doanh nghiệp cỡ vừa (the missing middle) để có thể sớm trở thành những doanh nghiệp lớn. Điều này thể hiện một số vấn đề về chất lượng trong số lượng của các DNTN và cần được coi là một trong những vấn đề chính sách cần được xử lý nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng cũng như vai trò của khu vực DNTN trong nền kinh tế.
Vẫn hiệu quả hơn DN Nhà nước
Tuy nhiên, cũng không thể vì vậy mà nói rằng, khu vực kinh tế tư nhân là kém hiệu quả. Trên thực tế, nó vẫn hiệu quả hơn hẳn khu vực kinh tế nhà nước và hiệu quả hơn cả khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ở nhiều khía cạnh.
Theo kết quả công trình nghiên cứu về chất lượng khu vực kinh tế tư nhân của ông Lê Duy Bình và Đậu Anh Tuấn (trưởng phòng Môi trường kinh doanh, Ban Pháp chế, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam), quy mô vốn chủ sở hữu của các DNTN cũng tăng đáng kể. Tổng vốn chủ sở hữu của các DNTN đã 17 lần tăng từ khoảng 38,7 ngàn tỷ vào năm 2000 lên tới 657 ngàn tỷ vào năm 2008. Tính trung bình, vốn chủ sở hữu bình quân một DNTN hiện nay đạt 5,2 tỷ động so với 1,2 tỷ đồng vào năm 2000.
|
Đánh giá một cách toàn diện, việc tăng quy mô vốn chủ sở hữu của các DNTN đã đi kèm với mức tăng rất ấn tượng về mức tăng doanh thu thuần (tăng gần 16 lần), lợi nhuận (tăng 27 lần), tổng tài sản (tăng 24 lần) trong giai đoạn 2000 - 2008.
Đặc biệt, tốc độ tăng của tổng tài sản, lợi nhuận đã tăng nhanh hơn rất nhiều so với tốc độ tăng của vốn chủ sở hữu, thể hiện việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư của các nhà đầu tư và các cổ đông trong các DNTN.
Về khả năng tạo lợi nhuận, tính trung bình một DNTN chỉ có thể tạo ra được khoảng 54 triệu đồng lợi nhuận vào năm 2000 thì con số này đã tăng lên gấp năm lần là 258 triệu vào năm 2008. Ở góc độ một số chỉ số khác, một DNTN hiện nay cũng có mức tài sản trung bình là 14 tỷ và mức doanh thu thuần trung bình là 17 tỷ, tăng hơn rất nhiều so với những năm đầu thập kỷ.
Nếu như vào năm 2000, với một 100 đồng vốn chủ sở hữu, một DNTN chỉ có thể tạo ra 271 đồng tài sản và 4,4 đồng lợi nhuận thì đến năm 2008, với một 100 đồng vốn chủ sở hữu, một DNTN đã có thể tạo ra được tới 398 đồng tài sản và 7 đồng lợi nhuận. Tuy rằng 100 đồng vốn chủ sở hữu đã tạo ra ít hơn số đồng doanh thu so với năm 2000, nhưng lại mang lại một tỷ lệ lợi nhuận cao hơn như đã đề cập ở trên. Điều này cũng thể hiện rằng hiệu quả về hoạt động tài chính cũng như khả năng tạo ra lợi nhuận trên mỗi đồng vốn đầu tư của các DNTN đã được cải thiện đáng kể trong giai đoạn này.
Một yếu tố có thể nhìn nhận, đánh giá cao hiệu quả khu vực kinh tế tư nhân là khu vực này tạo ra nhiều việc làm, có tốc độ tạo việc làm lớn nhất.
Nếu như năm 2000, hơn 31 ngàn DNTN tạo ra được hơn 850 ngàn việc làm, chiếm 24,28% tổng số việc làm tạo ra trong khu vực doanh nghiệp chính thức và chỉ bằng 65% số lượng việc làm mà riêng các doanh nghiệp Nhà nước Trung ương tạo ra.
Nhưng sau 9 năm thực hiện Luật Doanh nghiệp, tính đến cuối năm 2008 thì các doanh nghiệp tư nhân chính thức đã tạo ra được 4,3 triệu việc làm, chiếm hơn 54% tổng số việc làm của các doanh nghiệp chính thức tạo ra và gấp gần 4 lần tổng số việc làm mà các doanh nghiệp Nhà nước Trung ương tạo ra. Như vậy, số lượng lao động mà DNTN tạo ra trong giai đoạn này cũng đã tăng đáng kể tăng hơn 505%.
Theo đánh giá của nhóm nghiên cứu về chất lượng khu vực kinh tế tư nhân, con số trên rõ ràng đã nói lên rất nhiều điều về chất lượng của khu vực kinh tế này về phương diện tạo việc làm. Số việc làm tạo ra đã góp phần rất lớn cho quá trình phát triển kinh tế, cải thiện thu nhập cho người dân và hỗ trợ quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, đặc biệt là từ phương diện tạo việc làm cho những đối tượng bị giảm biên chế hoặc mất việc do quá trình cải cách hành chính, cải cách doanh nghiệp nhà nước. Nó cũng góp phần đáng kể quá trình tạo việc làm cho hơn 1,2 triệu người tham gia trị trường lao động mỗi năm và duy trì tỷ lệ thất nghiệp thấp ở Việt Nam trong thập kỷ qua (ở mức 4-5% trong giai đoạn này).
Nhưng không chỉ có sự gia tăng về số lượng việc làm mà chất lượng việc làm và năng suất lao động được cải thiện. Tính trung bình, mức thu nhập bình quân hàng năm của người lao động trong năm 2000 chỉ là 8,2 triệu đồng (gấp khoảng 1.4 lần GDP bình quân đầu người của năm 2000, tính theo giá năm 2000). Con số này đã tăng lên 32 triệu đồng/ người/ năm, gần gấp đôi mức thu nhập bình quân đầu người vào năm 2008.
Về năng suất, trong vòng 8 năm, mức doanh thu trung bình do một người lao động trong các DNTN tạo ra đã tăng gấp 3 từ 225 triệu đồng vào năm lên tới 710 triệu đồng vào năm 2008. Tuy chỉ số này không thể phản ánh chính xác mức cải thiện năng suất tổng thể của các doanh nghiệp tư nhân, tăng năng suất lao động đã phần nào thể hiện được sự cải thiện đáng kể về hiệu suất công việc của các doanh nghiệp trong khu vực này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét